Bài tập thực hành môn Ngữ Văn Lớp 10

doc 10 trang An Bình 03/09/2025 200
Bạn đang xem tài liệu "Bài tập thực hành môn Ngữ Văn Lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docbai_tap_thuc_hanh_mon_ngu_van_lop_10.doc

Nội dung text: Bài tập thực hành môn Ngữ Văn Lớp 10

  1. HƯỚNG DẪN CHO HỌC SINH ÔN LUYỆN - KHỐI 10 1. Bài : Phú sông Bạch Đằng a. Kiến thức cơ bản( đã học): - Về nội dung: + Nhân vật Khách: . Là người có tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy . Am hiểu thắng cảnh nhiều nơi qua sử sách-> Tầm hiểu biết sâu rộng . Thích học thú tiêu dao của người xưa: Tử Trường .Trước cảnh sông Bạch Đằng: Vừa vui vừa buồn. Vui trước cảnh đẹp và buồn tiếc nuối về quá khứ hào hùng. + Các bô lão: . Thái độ: tôn kính, nhiệt tình mến khách . Kể về cuộc chiến trên sông Bạch Đằng : Diễn biến trận đánh, kết quả . Phân tích nguyên nhân chiến thắng của ta + Lời ca của Khách và các bô lão: đề cao vai trò của con người - Về nghệ thuật: Liệt kê tái hiện lại không khí cuộc chiến 1 thời Hình tượng nghệ thuật: sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp vừa mang ý nghĩa khái quát, triết lí. Ngôn ngữ: trang trọng, hào sảng vừa lắng đọng, gợi cảm. ” Bài phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong VHTĐVN. b. Thực hành 1 số đề: Đề 1: Phân tích đoạn 1 trong bài phú sông bạch đằng Khách có kẻ: Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết. Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt. Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết. Bèn giữa dòng chừ buông chèo, Học Tử Trường chừ thú tiêu dao, Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu, Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu. Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô, Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nỗi anh hùng dâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu! Gợi ý
  2. Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ Thân bài . Giới thiệu nhân vật khách và tâm trạng của khách khi đến với sông Bạch Đằng lịch sử. . Là người có tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy . Am hiểu thắng cảnh nhiều nơi qua sử sách-> Tầm hiểu biết sâu rộng . Thích học thú tiêu dao của người xưa: Tử Trường .Trước cảnh sông Bạch Đằng: Vừa vui vừa buồn. Vui trước cảnh đẹp và buồn tiếc nuối về quá khứ hào hùng. Kết bài: Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Đề 2: Phân tích đoạn 2 trong bài phú sông bạch đằng Bên sông bô lão, hỏi ý ta sở cầu? Có lẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau, Vái ta mà thưa rằng: Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao. Đương khi ấy: Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới. Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói. Trận đánh được thua chửa phân, Chiến lũy bắc nam chống đối. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi. Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối, Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi! Thế nhưng: Trời cũng chiều người, Hung đồ hết lối! Khác nào như khi xưa: Trận Xĩch Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi. Đến nay nước sông tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù không rửa nổi! Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi. Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san. Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở, Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an. Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã, Trận nào bằng trận Lưu Thủy: Như quốc sĩ họ Hàn. Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng, Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn. Gợi ý Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ Thân bài: Giới thiệu về các bô lão . Thái độ: tôn kính, nhiệt tình mến khách
  3. . Kể về cuộc chiến trên sông Bạch Đằng : Diễn biến trận đánh, kết quả . Phân tích nguyên nhân chiến thắng của ta Kết bài: Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. 2. Bài: Đại cáo bình Ngô a. Kiến thức cơ bản * Đoạn 1: Luận đề chính nghĩa : + Tư tưởng nhân nghĩa: . Theo quan niệm của đạo Nho: nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. . Nguyễn Trãi:+ chắt lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân. + đem đến nội dung mới: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Đó là cơ sở để bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh (phù Trần diệt Hồ giúp Đại Việt). Khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ thù xâm lược. + Chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt: Cương vực lãnh thổ: nước Đại Việt ta- núi sông bờ cõi đã chia. Nền văn hiến: vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Phong tục: phong tục Bắc Nam cũng khác Lịch sử riêng, chế độ riêng: Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Hào kiệt: đời nào cũng có Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. Giọng điệu: trang trọng, hào hùng mang tính chất của một lời tuyên ngôn. * Đoạn 2: Bản cáo trạng tội ác của giặc : + Những âm mưu và tội ác của kẻ thù: Âm mưu xâm lược quỷ quyệt của giặc Minh: “Vừa rồi...thừa cơ gây họa”. Chữ “nhân”, “thừa cơ” vạch rõ luận điệu giả nhân giả nghĩa, “mượn gió bẻ măng” của kẻ thù. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc. Tố cáo chủ trương, chính sách cai trị vô nhân đạo, vô cùng hà khắc của kẻ thù: Tàn sát người vô tội - “Nướng dân đen... tai vạ”. Bóc lột tàn tệ, dã man: “Nặng thuế...núi”. Huỷ diệt môi trường sống: “Người bị ép...cây cỏ”. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân bản. + Nghệ thuật viết cáo trạng: Dùng hình tượng để diễn tả tội ác của kẻ thù: “Nướng dân đen ...tai vạ”. Đối lập: Hình ảnh người dân vô tội Kẻ thù bị bóc lột, tàn sát dã man, tàn bạo, vô nhân tính. Phóng đại:“Độc ác thay, trúc Nam Sơn ko ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải ko rửa sạch mùi”
  4. Trúc Nam Sơn- tội ác của kẻ thù. Nước Đông Hải- sự nhơ bẩn của kẻ thù. Câu hỏi tu từ: “Lẽ nào...chịu được?” tội ác trời không dung đất không tha của quân thù. Giọng điệu: uất hận trào sôi, cảm thương tha thiết, nghẹn ngào đến tức giận. * Đoạn 3: Quá trình kháng chiến : + Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa .Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, điển cố, hình ảnh có sức biểu đạt lớn để dựng lên chân dung đầu đủ của người anh hùng dân tộc Lê Lợi khiến cho người đọc tự hào, ngưỡng mộ, cảm phục. .Bước đầu có những khó khăn : Thiếu nhân tài :” Nhân tài như lá mùa thu ,Tuấn kiệt như sao buổi sớm “ Thiếu lương thực : Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần ,khi Khôi Huyện quân không một đội . Ta có thuận lợi : Sức mạnh đoàn kết toàn dân, toàn quân. Người anh hùng Lê Lợi tiêu biểu cho ý chí, tinh thần yêu nước của dân tộc ,sức mạnh đó chính là động lực cho Lê Lợi vượt qua tất cả để chiến thắng quân thù. + Giai đoạn phản công - Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Phía ta : Mượn sự rộng lớn kỳ vĩ của thiên nhiên : “ sấm vang ,chớp giật “ Trúc chẽ tro bay “ sạch không kình ngạc ,tan tác chim muông trút sạch lá khô phá toang đê vỡ. đá núi phải mòn, nước sông phải cạn -> Sức mạnh làm chủ chiến trường Kẻ địch : Bị động ,đối phó thất thế, bạc nhươc sụp đổ về tinh thần ,thảm hại : nghe hơi mà mất vía ,nín thở cầu thoát thân ,phải bêu đầu bỏ mạng ,thất thế cụt đầu ,bại trận tử vong Thất bại nhục nhã : Cởi giáp ra hang ,lê gối dâng tờ tạ tội ,vẫy đuôi xin cứu mạng ..hồn bay phách lạc tim đập chân run → Hình tượng kẻ thù nhục nhã thảm bại càng tăng thêm hào khí anh hùng của dân tộc, kẻ thù được tha về nước đã làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. b. Thực hành 1 số đề: Đề 1: Phân tích đoạn 1 trong bài Đại cáo bình Ngô Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cỏi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
  5. Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi. Gợi ý Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ Thân bài: + Tư tưởng nhân nghĩa: . Theo quan niệm của đạo Nho: nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. . Nguyễn Trãi:+ chắt lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân. + đem đến nội dung mới: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Đó là cơ sở để bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh (phù Trần diệt Hồ giúp Đại Việt). Khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ thù xâm lược. + Chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt: Cương vực lãnh thổ: nước Đại Việt ta- núi sông bờ cõi đã chia. Nền văn hiến: vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Phong tục: phong tục Bắc Nam cũng khác Lịch sử riêng, chế độ riêng: Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Hào kiệt: đời nào cũng có Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. Giọng điệu: trang trọng, hào hùng mang tính chất của một lời tuyên ngôn. + Liệt kê những thất bại thảm hại của giặc: sử sách còn ghi Kết bài: Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Đề 2: Phân tích đoạn 2 trong bài Đại cáo bình Ngô Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
  6. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được? Gợi ý Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ Thân bài: + Những âm mưu và tội ác của kẻ thù: Âm mưu: Phù Trần diệt Hồ nhưng thực chất giặc sang xâm lược nước ta, gây bao tội ác Tố cáo chủ trương, chính sách cai trị vô nhân đạo, vô cùng hà khắc của kẻ thù: Tàn sát người vô tội - “Nướng dân đen... tai vạ”. Bóc lột tàn tệ, dã man: “Nặng thuế...núi”. Huỷ diệt môi trường sống: “Người bị ép...cây cỏ”. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân bản. + Nghệ thuật viết cáo trạng: Dùng hình tượng để diễn tả tội ác của kẻ thù: “Nướng dân đen ...tai vạ”. Đối lập: Hình ảnh người dân vô tội Kẻ thù bị bóc lột, tàn sát dã man. tàn bạo, vô nhân tính. Phóng đại:“Độc ác thay, trúc Nam Sơn ko ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải ko rửa sạch mùi” Trúc Nam Sơn- tội ác của kẻ thù. Nước Đông Hải- sự nhơ bẩn của kẻ thù. Câu hỏi tu từ: “Lẽ nào...chịu được?” tội ác trời không dung đất không tha của quân thù. Giọng điệu: uất hận trào sôi, cảm thương tha thiết, nghẹn ngào đến tức giận. Kết bài: Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ. 3. Hiền tài là nguyên khí quốc gia Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba Thân Nhân Trung Thân Nhân Trung (1419 – 1499) là nhà thơ, nhà giáo dục nổi tiếng. Ông tự là Hậu Phủ, quê ở làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, đậu tiến sĩ năm 1469. Sau đó, ông giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, thăng Đông các Đại học sĩ, kiêm Thượng thư bộ Lại. Ông tham gia biên soạn bộ Thiên nam dư hạ tập, viết bài tựa bộ sách này, được Lê Thánh Tông cử làm Phó nguyên soái hội Tao Đàn. Khi Lê Thánh Tông mất, ông được đặc cử soạn bài để khắc ở bia Thánh Tông Chiêu lăng bi minh. Ông còn một số bài thơ Nôm trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Sự nghiệp trước tác và thơ văn của Thân Nhân Trung phản ánh tinh thần yêu nước tích cực của tầng lớp trí thức đương thời. 1. Tác phẩm Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba là bài kí về khoa thi tiến sĩ đầu tiên được dựng bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Nội dung cơ bản của bài kí là giải thích ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Mục đích cơ bản nhất là tôn vinh những người tài, động viên khích lệ để người tài dồn tâm huyết và sức lực hơn nữa chăm
  7. lo cho vận mệnh dân tộc. Bài kí có kết cấu của một bài tựa. Ngôn ngữ cô đúc, sắc sảo, lập luận chặt chẽ, có sức truyền cảm, có khả năng thuyết phục người nghe, người đọc. Nội dung Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 có vai trò quan trọng như một bài tựa cho 82 tấm bia tiến sĩ ở Quốc Tử Giám, được viết theo thể văn chính luận. Bài kí viết ra nhằm mục đích giải thích lí do, mục đích lâu dài, cần thiết và quan trọng của việc lập văn bia tiến sĩ. Văn bản chính luận thiên về lập luận, lí lẽ để thuyết phục người nghe (người đọc) vì vậy cần một lối viết sắc sảo, lập luận và kết cấu chặt chẽ. Bài kí đề danh tiến sĩ đã đạt đến trình độ chuẩn mực cho các yêu cầu của văn chính luận trung đại. Đoạn trích Hiền tài là nguyên khí quốc gia được mở đầu bằng thái độ khiêm tốn của người viết. Để nói đến ý nghĩa đúng đắn và tầm quan trọng của việc dựng bia ghi công những bậc hiền tài, người viết mở đầu bằng một nhận định đã có tính chất như chân lí được đúc kết từ lâu : “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. “Nguyên khí” là chất làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước, xã hội, hiền tài cũng là kết tụ khí thiêng của dân tộc, của trời đất như người đời vẫn nói “địa linh sinh nhân kiệt”. Là nơi đúc kết khí thiêng sông núi, là nguyên khí của quốc gia nên hiền tài có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh thịnh suy của đất nước, “Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Một cách rất ngắn gọn và rõ ràng, tác giả đã nêu bật được vai trò của hiền tài đối với vận mệnh dân tộc, đó là vai trò quyết định. “Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất”. Vì vậy, các triều đình đều đã có những hình thức tôn vinh hiền tài, “quý chuộng kẻ sĩ”, “ban ân rất lớn”, “nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ”. Như thế vẫn cho là chưa đủ, chưa xứng với vai trò của hiền tài với vận mệnh quốc gia, “chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, những lời khen tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên lại dựng đá đề danh đặt ở cửa Hiền Quan ”. Phần mở đầu, tác giả đã nêu rõ lí do dựng bia tiến sĩ, đó là biểu hiện của tinh thần trọng người tài của dân tộc của các đấng minh vương. Phần thứ hai, khẳng định việc dựng bia đá là đúng đắn và cần thiết, bởi ngoài ý nghĩa tôn vinh hiền tài, “khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua”, dựng bia còn để “kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước”. Và người viết đã khẳng định đây là ý sâu xa nhất của việc dựng văn bia. Mục đích lâu dài và sâu sắc của việc dựng văn bia là răn dạy lẽ phải, phòng ngừa sự tha hoá biến chất của người có tài trong thiên hạ. Người tài của đất nước tuy không nhiều song cũng không quá hiếm hoi ; nhưng để là người hiền tài, là nguyên khí của quốc gia thì cần phải có những hình thức sử dụng hiệu quả. Tác giả đã đưa ra một số trường hợp “có tài mà không có đức” và giải thích : “những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn”. Mục đích và ý nghĩa của việc dựng bia đá được nói rất rõ và cụ thể. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh dân tộc. Dựng bia ghi danh tiến sĩ là việc làm có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc, vì vậy, những lí lẽ, lập luận giải thích phải triệt để. Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã thực hiện xuất sắc điều đó. Tiến sĩ giải thích rất rõ, dựng bia không phải là chuyện “chuộng văn suông, ham tiếng hão”, “Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng” mà là một phương thức để củng cố vận mệnh dân tộc, đó là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài của các bậc minh quân.
  8. Tóm lại, mục đích của việc dựng văn bia là tôn vinh hiền tài và răn dạy, nhắc nhở người hiền tài ý thức rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh quốc gia. Nhưng dù sao, lí do quan trọng nhất để minh vương quyết định đặt bia đá ở cửa Hiền Quan vẫn là vì vai trò quan trọng của hiền tài đối với vận mệnh dân tộc. Lối kết cấu vòng tròn của bài kí đã khẳng định điều đó. Bài kí mở đầu bằng câu “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và kết thúc với ý “để củng cố mệnh mạch cho nhà nước”. Phần lạc khoản của bài kí bắt đầu từ “Bề tôi kính ghi ” đến hết, đã ghi đầy đủ và trân trọng những người tham gia dựng bia. Điều này cũng góp phần thể hiện thái độ trân trọng và ý nghĩa trọng đại của việc dựng bia tiến sĩ. 4. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên - Nguyễn Dữ I. Tác giả - Nguyễn Dữ (có người đọc là Nguyễn Tự), chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI - Quê quán: xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương - Ông xuất thân trong gia đình khoa bảng (cha đỗ tiến sĩ đời Lê Thánh Tông) - Ông từng đi thi và đã ra làm quan, sau đó không bao lâu thì từ quan lui về ẩn dật. - Ông để lại tác phẩm nổi tiếng là Truyền kì mạn lục, qua tác phẩm có thể thấy được quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời. II. Tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên 1. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” a) Thể loại truyền kì - Truyền kì là một thể văn xuôi tự sự thời trung đại, phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường. - Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao. Điều này đã tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho thể loại - Đằng sau những chi tiết phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực cũng như quan niệm và thái độ của tác giả. b) Truyền kì mạn lục - Truyền kì mạn lục là tác phẩm viết ằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI - Nội dung: + Hiện thực xã hội đương thời + Số phận con người + Tinh thần dân tộc - Nghệ thuật: có sự tham gia của các yếu tố hoang đường, kì ảo → Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo 2. Tóm tắt “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” Ngô Tử Văn vốn là một kẻ sĩ khảng khái, chính trực. Trong làng có một ngôi đền thiêng. Từ khi có một tên tướng giặc nhà Minh tử trận ở gần đền, hồn của hắn tác quái. Tức giận, Tử Văn châm lửa đốt để trừ hại cho dân. Sau khi đốt đền, Tử Văn lên cơn sốt mê man, chàng thấy tên hung thần đòi trả đền và đe dọa bắt chàng xuống âm phủ. Thổ thần bày tỏ thái độ cảm phục trước hành động dũng cảm của Tử Văn, mách chàng về tung tích, tội ác tên hung thần và cách đối phó. Đến đêm, khi bệnh nặng thêm, Tử Văn thấy hai tên quỷ đến bắt chàng xuống âm phủ. Trước Diêm Vương, Tử Văn đã tố cáo tội ác của tên hung thần để hắn bị trừng trị. Thổ thần
  9. được phục chức, lính đưa Tử Văn về trần gian. Một tháng sau, Thổ thần tiến cử Tử Văn giữ chức phán sự đền Tản Viên để tạ ơn. 3. Bố cục (4 phần) - Phần 1 (từ đầu không cần gì cả) : Tử Văn đốt đền. - Phần 2 (tiếp khó lòng thoát nạn) : Tử Văn với viên Bách hộ họ Thôi và Thổ công. - Phần 3 (tiếp sai lính đưa Tử Văn về) : Tử Văn thắng kiện. - Phần 4 (còn lại) : Tử Văn trở thành phán sự đền Tản Viên. 4. Giá trị nội dung Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn, một người trí thức nước Việt; đồng thời, thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà của tác giả. 5. Giá trị nghệ thuật - Yếu tố kì ảo dày đặc, xen chuyện người, chuyện thần, ma, trần gian, địa ngục - Cốt truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ, lo-gic. - Cách dẫn truyện khéo léo, biến hóa, có cao trào, có thắt mở nút. - Nhân vật được xây dựng sắc nét. 6. Nhân vật Ngô Tử Văn a. Giới thiệu khái quát về nhân vật Ngô Tử Văn - Tên họ: Ngô Tử Văn, tên là Soạn - Quê quán: huyện Yên Dũng, tỉnh Lạng Giang - Tính tình: khẳng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà không chịu được → Cách mở đầu trực tiếp, ngắn gọn theo cách mở truyện truyền thống của văn học trung đại tạo sự chú ý của người đọc b. Ngô Tử Văn – người đốt đền tà - Nguyên nhân đốt đền: Tức giận trước sự hống hách, lộng hành làm hại dân chúng của hồn ma tiên tướng giặc - Hành động của Ngô Tử Văn: + Tắm gội sạch sẽ, khấn trời → Thái độ tôn kính, nghiêm túc + Châm lửa đốt đền, vung tay không sợ gì cả mặc cho mọi người lắc đầu lè lưỡi → Thái độ dứt khoát, bất chấp hậu quả xấu cho bản thân ⇒ Ngô Tử Văn là một kẻ sĩ, tính tình khảng khái, cương trực, dũng cảm, vì dân trừ hại, có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. - Sau khi đốt đến, Tử Văn bị bệnh, mơ thấy có người đòi đền nhưng chàng vẫn thản nhiên, mặc kệ - Cuộc giáp mặt giữa Ngô Tử Văn và tên tướng giặc: + Tên tướng giặc: trách mắng, đòi trả tiền, đe dọa + Ngô Tử Văn: mặc kệ, ngồi ngất ngưởng, tự nhiên → Thái độ của con người tin vào việc làm chính nghĩa - Cuộc gặp gỡ của Ngô Tử Văn với thổ công + Thổ công: Kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại để Tử Văn thấy được sự xảo trá tác oai tác quái của tên tướng giặc, lo lắng cho Tử Văn. bày cách để Ngô Tử Văn đối phó với tên hung thần và đối chất với Diêm Vương → Ngô Tử Văn không chiến đấu đơn độc àm có sự giúp đỡ của thổ công ⇒ Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, bất ngờ, kết hợp với yếu tố kì ảo dày đặc .đã
  10. khắc họa rõ nét hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn là người cương trực, yêu chính nghĩa, bản lĩnh, kiên cường và giàu tinh thần dân tộc. c. Ngô Tử Văn bị bắt dẫn xuống Minh Ti và thắng kiện * Ngô Tử Văn và những thử thách - Hồn ma tên tướng giặc: Tố cáo Tử Văn với Diêm Vương - Diêm Vương: Nghe lời tố cáo của tên tướng giặc mà trách măng Tử Văn - Ngô Tử Văn: Tỏ thái độ cứng cỏi trước Diêm Vương đầy uy quyền, đấu tranh vạch mặt tên tướng giặc gian tà. * Ngô tử Văn vạch trần tội ác tên giặc và thắng trận - Hồn ma tên tướng giặc: Tranh cải với Tử Văn, sau lại lo sợ, đạo đức giả: xin giảm án cho Tử Văn. - Ngô Tử Văn: Xin đem tư giấy đến đền Tản Viên chứng thực. - Diêm Vương: Nghi ngờ, cho người đến đền Tản Viên chứng thực → xử cho Tử Văn thắng kiện. ⇒ Ngô Tử Văn không hề nhụt chí, run rẩy hay khiếp sợ trước cảnh địa ngục, ma quỷ xung quanh mình. Chàng quyết đấu tranh cho lẽ phải, cho công lí. Điều đó rất đáng trân trọng ở con người này. ⇒ Tử Văn đã thắng kiện chứng tỏ cái thiện, cái chính nghĩa đã thắng cái gian tà, cái ác. Tên họ Thôi đã bị trừng trị đích đáng, dân gian được bình an, Thổ công được trả lại đền. d. Ngô Tử Văn nhận chức phán sự ở đền Tản Viên - Là phần thưởng cho sự cương trực, thẳng thắn, trung nghĩa của Ngô Tử Văn - Diệt trừ tận gốc cái ác, cái xấu - Gửi gắm ước mơ của nhân dân về công lí xã hội, về một vị quan cương trực - Cuộc gặp gỡ của Tử Văn với người quen cũ: thể hiện niềm tin của nhân dân vào vị quan phán sự thanh liêm, giúp đỡ nhân dân