Đề tài Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trường THCS

Hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên. Như tên của nó, đôi khi chúng ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh (HS). Có lúc HS học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?
doc 24 trang Tú Anh 01/04/2024 100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_lien_he_thuc_te_nham_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mon_ho.doc

Nội dung text: Đề tài Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trường THCS

  1. Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS A. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên. Như tên của nó, đôi khi chúng ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh (HS). Có lúc HS học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích? Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế. Có những vấn đề hóa học giúp HS giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập của HS. Với những lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu, tham khảo tư liệu và áp dụng đề tài:“Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS. Có vậy, HS sẽ thấy môn hoá học là môn học gần gũi, dễ hiểu; qua đó từng bước hình thành ở các em lòng yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học. 1
  2. 2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp HS giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan. Đồng thời, đề tài cũng sẽ làm rõ ý nghĩa khoa học hoá học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống thường ngày qua giảng dạy môn hoá học lớp 9, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Từ những cơ sở đó, đề tài cũng sẽ đem lại cho GV và HS những nhận thức về PP học tập, làm việc mang tính hợp tác, thấy rõ vai trò tích cực của HS và chủ đạo của GV làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù phức tạp. Tóm lại, đề tài muốn góp một tiếng nói vào phong trào đổi mới PPDH, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo trong tình hình đất nước hiện nay. 3. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CÚU: Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau: Một là: nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học hoá học ở trưòng phổ thông. Hai là: nghiên cứu tình hình thực tế qua việc dự giờ các tiết dạy của GV cùng bộ môn để đánh giá và rút ra PP giảng dạy thích hợp, đồng thời nghiên cứu hiệu quả học tập của HS trong suốt quá trình thực hiện giải pháp. Ba là: trên cơ sở thống kê số liệu chỉ rõ cách thực hiện và hiệu quả của việc áp dụng :“Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” Đối tượng áp dụng đế tài là HS lớp 9 trường THCS Phú An (nay là trường THCS Nguyễn Tuấn Việt), Cụ thể là: 39 HS lớp 9A2, 39 HS lớp 9A3 năm học: 2009 - 2010 40 HS lớp 9A4, 39 HS lớp 9A5 năm học: 2010 – 2011 36 HS lớp 9A1, 34 HS lớp 9A4 năm học: 2011 – 2012 Đây là những HS có sức học bình thường theo đặc trưng của một trường vùng ven. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận 2
  3. xảy ra gần hai ngàn năm về trước. Một hôm, một người lạ đến gặp hoàng đế La Mã Tibêri. Người đó mang tặng hoàng đế một cái chén do chính mình làm ra từ một thứ kim loại lấp lánh như bạc, nhưng lại rất nhẹ. Người thợ nói rằng, anh ta lấy được thứ kim loại mà chưa ai biết này từ đất sét. Có lẽ Tibêri ít khi bận tâm biết ơn ai, và ông ta cũng là một hoàng đế thiển cận. Sợ rằng, thứ kim loại mới với những tính chất tuyệt vời của nó sẽ làm mất hết giá trị của đống vàng và bạc đang cất giữ trong kho, nên vị hoàng đế này đã ra lệnh chém đầu người phát minh và phá tan xưởng của anh ta để từ đấy về sau không còn ai dám sản xuất thứ kim loại “nguy hiểm” ấy nữa. Mãi đến thế kỷ XVI, tức là khoảng một ngàn năm trăm năm về sau, lịch sử của Kim loại này mới được ghi thêm một trang mới. Vị y sư kiêm nhà vạn vật học đầy tài năng người Đức là Philip Aureon Teofrat Bombat Fôn Hôhengây (Philippus Aureolus Theophratus Bombastus Von Hohenheim) - người đã đi vào lịch sử với biệt danh là Paratxen, đã làm được điều đó. Khi nghiên cứu các chất và các khoáng vật khác nhau trong đó có cả các loại phèn, nhà bác học này đã xác định được rằng, chúng là “muối của một loại đất chứa phèn nào đó” mà thành phần của nó có chứa oxit của một kim loại chưa ai biết; thứ oxit này về sau được gọi là đất phèn. Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Nhôm” tiết 24 hoá 9. Nhằm mục đích cung cấp kiến thức hoá học về sức khoẻ của con người, tạo sự hưng phấn học tập của học sinh. Vấn đề số 6: Tại sao nước máy lại có mùi clo? Vì sao không dùng nước máy để tưới cây cảnh? Khi sục vào nước lượng nhỏ khí Clo thì có phương trình hóa học của phản ứng xảy ra như sau: Cl2 + H2O → HClO + HCl HClO có tính oxi hóa mạnh nên có khả năng diệt khuẩn. Trong nước vẫn còn lượng nhỏ clo nên nước máy có mùi clo. Khi dùng nước máy tưới cây cảnh thì trên lá cây xuất hiện những đóm 12
  4. trắng và làm rụng lá vì chất diệp lục trên lá bị oxi hóa bởi lượng HClO trong nước máy. Do vậy không dùng nước máy để tưới cây, hoa cảnh. Khí clo đã được dùng làm vũ khí ở đâu và khi nào ? Đó là xế chiều ngày 24 - 4 - 1915 (thế chiến thứ nhất 1914 - 1918) giữa 2 ngôi làng có tên là Steenstraat và Poel Kappelle (nớc Bỉ) xuất hiện một đám khói màu vàng lục xuất phát từ phòng tuyến của quân Đức bay là là cách mặt đất 1 mét theo chiều gió tiến dần đến phòng tuyến quân Pháp. Đó là khói của 150 tấn clo chứa trong 5830 thùng điều áp vừa được các binh sĩ của trung đoàn quân tiên phong 35 và 36 Đức thả vào không khí. Mười lăm phút sau, bộ binh Đức được trang bị đặc biệt bám theo đám khói clo đó tấn công thẳng vào cứ điểm Pháp. Sự tác động của khí độc thật vô cùng ghê gớm. Hàng trăm binh sĩ Pháp hỗn loạn chạy ngược về phía sau tìm không khí để thở. Khi quân Đức tới nơi họ trông thấy nhiều xác chết với gương mặt xanh nhợt nằm la liệt bên những người hấp hối, cơ thể co giật dữ dội, miệng ứa ra một chất dịch màu vàng nhạt. Kết quả là tuyến phòng thủ của quân Pháp bị phá vỡ và khí clo đã giết chết 3000 người và làm 7000 người bị thương. Áp dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay trong các nhà máy nước giúp học sinh hiểu được vai trò của hoá học trong sản xuất và đời sống. Giáo viên có thể liên hệ trong khi dạy bài Clo hoá học 9. Vấn đề số 7: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi? Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm khê, làm cho cơm đỡ mùi khê. Áp dung: Giáo viên cung cấp cho học sinh 1 số mẹo vặt trong đời sống thường ngày khi giảng dạy bài “Cacbon” tiết 33 hoá 9. Vấn đề số 8: Khí CO2 dùng để dập tắt đám cháy nhưng không dùng để dập tắt đám cháy của chất nào? Không thể dập tắt đám cháy của các kim loại K, Na, Mg, bằng khí CO2. Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí quyển CO2. 13
  5. Thí dụ: 2Mg + CO2 → 2MgO + C Làm thế nào để tạo khói màu trên sân khấu ? Trong các buổi biểu diễn ca nhạc hay trong các đám cưới, người ta thường tạo khói trắng bằng cách thả các viên đá băng khô (CO2 rắn) vào các ly đựng nước nóng. CO2 rắn thăng hoa nhanh, làm giảm nhiệt độ của vùng không khí xung quanh ly nước khiến cho hơi nước ngưng tụ tạo thành đám sương mù màu trắng. Để tạo hiệu ứng khói màu, người ta chiếu ánh sáng màu lên màn sương này. Áp dụng: Vấn đề này đề cập trong bài giảng “Các ôxit của cacbon” tiết 34 hoá học 9. Nhằm giúp cho HS hiểu biết thêm về việc phòng cháy chữa cháy và đây cũng là vấn đề thiết thực có khi xảy ra trong phòng thí nghiệm (cháy nổ natri ). Vấn đề số 9: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa hóa học gì? Thành phần chủ yếu của đá là CaCO 3. Khi gặp nước mưa và khí CO 2 trong không khí, CaCO3 chuyển hoá thành Ca(HCO3)2. Theo PTHH sau: CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2 Khi nước chảy cuốn theo Ca(HCO 3)2, theo nguyên lí dịch chuyển cân bằng thì cân bằng sẽ chuyển dịch theo phía phải. Kết quả là sau một thời gian nước đã làm cho đá bị bào mòn dần. Em có biết “sự tạo thành thạch nhũ trong các hang động” Trong các hang động như động Hương Tích (Chùa Hương), động Thiên Cung, hang Đầu gỗ (Vịnh Hạ Long), động Phong Nha (Quảng Bình) và các hang động ở nhiều địa phương khác có nhiều thạch nhũ hình dáng khác nhau, trông lạ mắt và rất đẹp. Đó chính là kết quả lâu dài của sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai muối Ca(HCO3)2 và CaCO3. Thành phần chính của núi đá vôi là CaCO 3 khi gặp nước mưa và khí CO2 trong không khí, CaCO3 chuyển hoá thành Ca(HCO3)2 tan trong nước, chảy qua các khe đá vào trong hang động. Dần dần Ca(HCO3)2 chuyển hoá thành CaCO3 rắn, không tan. Quá trình này xảy ra liên tục, lâu dài tạo nên thạch nhũ với những hình thù khác nhau. Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá có dòng nước chảy qua. Do hiện tượng xảy ra chậm nên phải thật sự chú ý chúng ta mới nhận ra điều 14
  6. này. Hiểu được điều này giúp học sinh biết được dụng ý khoa học của câu tục ngữ có từ xa xưa và làm cho hóa học trở nên rất gần gũi hơn trong cuộc sống đời thường. Giáo viên có thể liên hệ vấn đề này ở phần “Muối cacbonat ”(Tiết 39 lớp 9). Vấn đề số 10: Vì sao có khí mê tan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)? Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các vật thể này thối rữa (hay quá trình phân huỷ các vật thể hữu cơ) sinh ra khí mêtan. Người ta ước chừng 1/7 lượng khí mêtan thoát vào khí quyển hàng năm là từ các hoạt động cày cấy. Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn nuôi heo tạo khí mêtan để sử dụng đun nấu hay chạy máy Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên đưa vấn đề này vào trong phần liên hệ thực tế bài “Mêtan” tiết 47 hoá học 9. Vấn đề số 11: Làm cách nào để quả xanh mau chín? Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả xanh thì toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy? Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên cứu quá trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một lượng nhỏ khí êtylen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế bào trái cây và làm cho quả mau chín. Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm chậm quá trình chín của trái cây bằng cách làm giảm nồng độ êtilen do trái cây sinh ra. Điều này đã được sử dụng để bảo quản trái cây không bị chín mùi khi vận chuyển đi xa. Ngược lại khi cần cho quả mau chín, người ta thêm êtilen vào kích thích quá trình hô hấp của tế bào trái cây. Áp dụng: Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai cũng biết giải thích. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế trong bài giảng “Êtilen” tiết 48 hoá học 9. Vấn đề số 12: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC 2, khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit. 15
  7. CaC2 + 2H2O C2H2 + Ca(OH)2 Axetilen có thể tác dụng với H 2O tạo ra anđehit axetic. Các chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết. Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Axêtilen” tiết 49 hoá học 9. Nhằm giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường, tôn trọng pháp luật Vấn đề số 13: Cây nào hấp thu benzen làm sạch không khí? Benzen độc là hóa chất dùng trong nhiều loại bột giặt, hồ dán, nhựa, sơn Những loại cây cảnh dưới đây không chỉ làm đẹp, mà còn làm tươi mát không khí trong phòng, nhờ tác dụng "lọc" bỏ những hơi độc benzen như: Hoa cúc, hoa đồng tiền, nha đam, cây nhện, cây cọ cảnh, cây huệ bình (Lan Ý). Hoa cúc Hoa đồng tiền Nha đam Cây nhện Cây cọ cảnh Cây huệ bình Áp dụng: Điều này đề cập trong bài giảng “Benzen” tiết 51 hoá học 9. Giúp học sinh hiểu được vai trò của cây xanh trong việc bảo vệ môi trường. Vấn đề số 14: Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì? Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Têtraêtyl chì có tác dụng làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm khỏng 30% lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì ôxít sinh ra sẽ bám vào các ống xả, thành xi lanh, do đó phải trộn váo xăng chất đibrômêtan để ôxít chì chuyển thành muối PbBr2 dễ bay hơi thoát khỏi xilanh, ống xả thải vào không khí gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người. 16
  8. Áp dụng: Hiện nay nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sử dụng xăng pha chì. Để hiểu được vì sao thì không ít người hiểu được vấn đề này. Thông qua nội dung bài “Dầu mỏ và khí thiên nhiên” tiết 52 hoá học 9 giúp học sinh biết được tác hại của việc pha chế vào xăng nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Vấn đề số 15: Vì sao cồn có thể sát khuẩn? Cồn là dung dịch ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao, có thể xuyên qua màng tế bào tiếp cận vào trong gây đông tụ protêin làm cho tế bào chết (do prôtêin là cơ sở sự sống của tế bào). Thực tế thấy rằng chỉ có 75% ancol etylic trong cồn là có khả năng sát khuẩn tốt nhất, cồn nồng độ cao hơn cũng làm biến tính protein vi khuẩn, nhưng do độ cồn cao vô tình đã tạo ra một lớp bọc bên ngoài bảo vệ phần bên trong của vi khuẩn khỏi tác dụng của cồn. Mặt khác, cồn cao độ dễ bay hơi hơn nên cũng giảm phần nào hiệu quả sát trùng. Áp dụng: Ngoài sát trùng vết thương tại gia đình, cồn có thể được sử dụng để sát trùng dụng cụ, sát trùng da trước khi tiêm. Cần lưu ý tránh để cồn bắn vào mắt và không được uống. Giáo viên có thể xen vào trong tiết dạy bài “rượu êtylíc” tiết 56 hoá học 9. Vấn đề số 16: Em có biết cách làm xà phòng? Thông thường thí nghiệm xà phòng hoá ít thành công (chỉ thu được ván xà phòng). Sau đây là cách làm để thu được bánh xà phòng: Cho dầu ăn và mở bò (đây là bí quyết để TN thành công) vào chén sứ, đun trên ngọn lửa đèn cồn. Từ từ cho dung dịch NaOH đã pha sẵn vào dầu ăn, khuấy đều đến khi hỗn hợp này hoà đều với nhau (như hồ tinh bột) Đổ hỗn hợp ra khuôn ta sẽ thu được xà phòng bánh. Áp dụng: Giáo viên thực hiện trong bài giảng “Chất béo” tiết 60 hoá học 9. Giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hoá học trong sản xuất và đời sống, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được. Vấn đề số 17: Tại sao khi nhai cơm kỹ sẽ thấy vị ngọt? 17
  9. Cơm chứa một lượng tinh bột khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của con ngườicó các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hóa một lượng tinh bột theo phản ứng thủy phân tạo thành mantozo, glucozơ gây ngọt theo sơ đồ sau: Tinh bột Amilaza,H2 O Đetrin  Amilaza,H2 O Mantozơ mantozo,H 2 O Glucozơ Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột ( tiết 65 hoá học 9) cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hóa tinh bột khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng trong tự nhiên điều cảm nhận được trong các bữa cơm của chúng ta. Vấn đề số 18: Em có biết vì sao “chảo không dính” khi chiên? Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo dễ bị dính chảo. Nếu dùng chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính chảo. Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao phân tử. Đó là Politetra floetilen được tôn vinh là “vua chất dẽo” thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc. Một điều lưu ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt độ trên 2500C là bắt đầu phân huỷ và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính. Áp dụng: “Chảo không dính” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng khá nhiều. Công dụng của chảo đã làm hài lòng tất cả các đầu bếp khó tính. Nhưng ít ai hiểu được vì sao chảo không dính lại ưu việt như vậy. Giáo viên có thể liên hệ vấn đề này khi dạy về bài “Polime” tiết 67- 68 hoá học 9. 3.4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 3.4.1 Kết quả đạt được: Sau khi áp dụng các phương pháp này vào giảng dạy tôi thấy chất lượng HS nâng cao rõ rệt. Dưới đây là kết quả sau khi thực hiện đề tài. 18
  10. Kết quả khảo sát chất lượng sau khi thực hiện đề tài Số Giỏi Khá TB Yếu Kém Năm học Lớp H S SL % SL % SL % SL % SL % 9A1 36 10 27.8 13 36.1 7 19.4 6 16.7 0 0 2009- 2010 9A4 34 9 26.5 12 35.3 8 23.5 5 14.7 0 0 9A2 39 11 28.2 14 35.9 9 23.1 5 12.8 0 0 2010-2011 9A3 39 11 28.2 14 35.9 10 25.6 4 10.3 0 0 9A4 40 13 32.5 15 37.5 9 22.5 3 7.5 0 0 2011-2012 9A5 39 12 30.8 15 38.5 9 23.0 3 7.7 0 0 Nguồn thống kê chất lượng HS trường THCS Phú An (Nay là trường THCS Nguyễn Tuấn Việt) Qua khảo sát chất lượng sau khi thực hiện đề tài ta thấy HS đạt từ trung bình trở lên ở các năm học có tăng lên rõ rệt. Cụ thể: Năm học 2009-2010 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 84.3% Năm học 2010-2011 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 88.5% Năm học 2011-2012 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 92.4.% Thực hiện so sánh khảo sát chất lượng trước và sau khi thực hiện đề tài tỷ lệ bình quân HS đạt từ trung bình trở lên tăng 52.7% và đặc biệt sau khi thực hiện đề tài không còn HS kém bộ môn. 3.4.2. Bài học kinh nghiệm: Qua thời gian nghiên cứu vận dụng đề tài, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: Về Liên hệ thực tế trong giảng dạy hoá học, GV giúp HS tích cực tham gia vào các hoạt động tìm kiến thức thông qua các bài tập lý thuyết và thực hành, thì kiến thức và kĩ năng của các em sẽ được củng cố một cách vững chắc, kết quả học tập không ngừng được nâng cao. HS đã thực sự chủ động, không còn gượng ép, đã biết tự lĩnh hội tri thức cho mình, từ đó tạo niềm say mê và hứng thú trong học tập môn hóa học. Hoàn toàn có thể sử dụng nội dung nêu trên để giúp HS họat động tìm 19
  11. kiếm kiến thức, rèn luyện kĩ năng giải thích một số hiện tượng có liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Yêu cầu của GV phải làm tốt các khâu chuẩn bị và khéo léo phối hợp tốt các PP sao cho phù hợp với từng nội dung và mức độ kiến thức đối với từng đối tượng HS. Nội dung nêu trong đề tài có khả năng phát huy rất tốt năng lực tư duy độc lập của HS, làm cho không khí học tập của HS hào hứng và sôi nổi hơn. Giáo viên đóng một vai trò quyết định cho sự thành hay bại của chất lượng dạy học. 20
  12. C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ “Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” là một trong các yêu cầu quan trọng của GV, để kích thích HS học tập một cách say mê và hứng thú, đồng thời vận dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống. Muốn làm được điều này, đòi hỏi GV phải có trình độ chuyên môn vững vàng , có sự hiểu biết sâu sắc bao quát hết toàn bộ nội dung chương trình hóa học của toàn cấp học. Những kinh nghiệm nêu trong đề tài nhằm mục đích bồi dưỡng và phát triển kiến thức kỹ năng cho học sinh vừa bền vững, vừa sâu sắc; phát huy tối đa sự tham gia tích cực của người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra kiến thức, tự mình tham gia các hoạt động để vừa làm vững chắc kiến thức, vừa rèn luyện kỹ năng. Đề tài này còn tác động rất lớn đến việc phát triển tiềm lực trí tuệ, nâng cao năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo cho HS. Tuy nhiên cần biết vận dụng các kỹ năng một cách hợp lý và biết kết hợp các kiến thức cơ bản cho từng học cụ thể thì mới đạt được kết quả cao. Đề tài này có thể mở rộng và phát triển quy mô hơn, rất mong được các cấp lãnh đạo triển khai đề tài thành diện rộng. Trên đây mới chỉ là một số vấn đề trong muôn vàn vấn đề của hóa học liên quan đến thực tế, cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng vì thời gian có hạn tôi mới chỉ đưa ra một số vấn đề để giúp cho trong mỗi bài giảng có sự lôi cuốn thu hút, tạo hứng thú cho học sinh khi học môn hóa học. Trong khi viết đề tài này chắc chắn tôi chưa thấy hết được những ưu điểm và tồn tại trong tiến trình áp dụng, tôi rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn. Xuất phát từ mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, tất cả vì HS thân yêu, không ngừng nâng cao trình độ và tích lũy bề dày kinh nghiệm của đội ngũ GV đang trực tiếp từng ngày, từng giờ đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đề đạt một số ý kiến sau: Hội đồng xét duyệt SKKN, đặc biệt là phòng giáo dục có thể giới thiệu rộng rãi các sáng kiến có tính khả thi cao trên mạng internet để đồng nghiệp cùng tham khảo. 21
  13. Ngành giáo dục cần đầu tư trang thiết bị dạy và học đầy đủ, đây cũng là điều góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho GV phát huy tốt hiệu quả giờ dạy cũng như nên có sự quan tâm động viên kịp thời tương xứng. Phú An, Tháng 02 Năm 2013 Người viết đề tài Nguyễn Văn Sĩ 22
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nguyễn Cương, Phương pháp dạy học và thí nghiệm hoá học.(Chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997 – 2000 cho giáo viên THPT). NXBGD 1999. - Trần Quốc Đắc (chủ biên) và tập thể tác giả. Hướng dẫn kĩ thuật sử dụng và làm đồ dùng dạy học. NXBGD 1987. - Trần Liên Nguyễn. Đố vui về hóa học - NXB Thanh niên 1998 - Trịnh Văn Biều. Các Phương pháp dạy học hiệu quả – ĐHSP. TPHCM - Sách giáo khoa, sách giáo viên hóa học 9 – BGD&ĐT - Nguyễn Xuân Trường. 385 câu hỏi và đáp về hoá học và đời sống. NXBGD 1996 23