Phiếu học tập môn Tiếng Việt Lớp 5 - Tuần 25 - Trường tiểu học Trần Bình Trọng
PHONG CẢNH ĐỀN HÙNG
Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xòe hoa. Trong đền, dòng chữ vàng Nam quốc sơn hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.
Lăng của các vua Hùng kề bên đền Thượng, ẩn trong rừng cây xanh. Đứng ở đây, nhìn ra xa, phong cảnh thật là đẹp. Bên phải là đỉnh Ba Vì vòi vọi, nơi Mị Nương – con gái Hùng Vương thứ 18 – theo Sơn Tinh về trấn giữ núi cao. Dãy Tam Đảo như bức tường xanh sừng sững chắn ngang bên trái đỡ lấy mây trời cuồn cuộn. Phía xa xa là núi Sóc Sơn, nơi in dấu chân ngựa sắt Phù Đổng, người có công giúp Hùng Vương đánh thắng giặc Ân xâm lược. Trước mặt là Ngã Ba Hạc, nơi gặp gỡ giữa ba dòng sông lớn tháng năm mải miết đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát.
Trước đền Thượng có một cột đá cao đến năm gang, rộng khoảng ba tấc. Theo ngọc phả, trước khi dời đô về Phong Khê, An Dương Vương đã dựng mốc đá đó, thề với các vua Hùng giữ vững giang sơn. Lần theo lối cũ đến lưng chừng núi có đền Trung thờ 18 chi vua Hùng. Những cành hoa đại cổ thụ tỏa hương thơm, những gốc thông già hàng năm, sáu thế kỉ che mát cho con cháu về thăm đất Tổ. Đi dần xuống là đền Hạ, chùa Thiên Quang và cuối cùng là đền Giếng, nơi có giếng Ngọc trong xanh, ngày xưa công chúa Mị Nương thường xuống rửa mặt, soi gương.
Theo ĐOÀN MINH TUẤN
File đính kèm:
- phieu_hoc_tap_mon_tieng_viet_lop_5_tuan_25_truong_tieu_hoc_t.docx
Nội dung text: Phiếu học tập môn Tiếng Việt Lớp 5 - Tuần 25 - Trường tiểu học Trần Bình Trọng
- Trường Tiểu học Trần Bình Trọng- Khối lớp 5 PHIẾU HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT TUẦN 25 I/ TẬP ĐỌC: *TIẾT 1: Phong cảnh đền Hùng Bài đọc PHONG CẢNH ĐỀN HÙNG Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xòe hoa. Trong đền, dòng chữ vàng Nam quốc sơn hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa. Lăng của các vua Hùng kề bên đền Thượng, ẩn trong rừng cây xanh. Đứng ở đây, nhìn ra xa, phong cảnh thật là đẹp. Bên phải là đỉnh Ba Vì vòi vọi, nơi Mị Nương – con gái Hùng Vương thứ 18 – theo Sơn Tinh về trấn giữ núi cao. Dãy Tam Đảo như bức tường xanh sừng sững chắn ngang bên trái đỡ lấy mây trời cuồn cuộn. Phía xa xa là núi Sóc Sơn, nơi in dấu chân ngựa sắt Phù Đổng, người có công giúp Hùng Vương đánh thắng giặc Ân xâm lược. Trước mặt là Ngã Ba Hạc, nơi gặp gỡ giữa ba dòng sông lớn tháng năm mải miết đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát. Trước đền Thượng có một cột đá cao đến năm gang, rộng khoảng ba tấc. Theo ngọc phả, trước khi dời đô về Phong Khê, An Dương Vương đã dựng mốc đá đó, thề với các vua Hùng giữ vững giang sơn. Lần theo lối cũ đến lưng chừng núi có đền Trung thờ 18 chi vua Hùng. Những cành hoa đại cổ thụ tỏa hương thơm, những gốc thông già hàng năm, sáu thế kỉ che mát cho con cháu về thăm đất Tổ. Đi dần xuống là đền Hạ, chùa Thiên Quang và cuối cùng là đền Giếng, nơi có giếng Ngọc trong xanh, ngày xưa công chúa Mị Nương thường xuống rửa mặt, soi gương. Theo ĐOÀN MINH TUẤN Chú giải: - Đền Hùng: Đền thờ các vua Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh, thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. - Nam quốc sơn hà: ý trong bài chỉ Tổ quốc Việt Nam - Bức hoành phi: tấm gỗ sơn son thiếp vàng có khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm cỡ lớn, thường treo ngang ở gian giữa nhà để thờ hoặc trang trí - Ngã Ba Hạc: nơi sông Lô chảy vào sông Hồng - Ngọc phá: sách ghi chép lai lịch, thân thế, sự nghiệp của những người được người đời kính trọng, tôn thờ. - Đất Tổ: chỉ khu vực đền Hùng hoặc chỉ chung tỉnh Phú Thọ, nơi các vua Hùng bắt đầu sự nghiệp dựng nước. - Chi: một nhánh trong dòng họ Chia đoạn: - Đoạn 1: “Từ đầu treo chính giữa” - Đoạn 2: “Lăng của các vua Hùng xanh mát” - Đoạn 3: Phần còn lại
- Tìm hiểu nội dung bài: Câu 1 Hãy kể những điều em biết về các vua Hùng. (Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con trai trưởng của Lạc Long Quân, được cha phong làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở thành Phong Châu (từ ngã ba sông Bạch Hạc về tới các vùng đất quanh núi Nghĩa Lĩnh, có thành phố Việt Trì và một phần đất thuộc các huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ngày nay). Hùng Vương truyền tiếp được 18 đời trị vì 2621 năm.) Câu 2 Tìm những từ ngữ miêu tả cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đền Hùng. (Những từ ngữ miêu tả cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đền Hùng là có những khóm hải đường đâm bông rực rỡ, những cánh bướm dập dờn bay lượn, bên trái là đỉnh Ba Vì vòi vọi, bên phải là dãy Tam Đảo như bức tường sừng sững, xa xa là núi Sóc Sơn, trước mặt là Ngã Ba Hạc, những cây đại, cây thông già, giếng Ngọc trong xanh.) Câu 3 Bài văn đã gợi cho em nhớ đến một số truyền thuyết về sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hãy kể tên các truyền thuyết đó. (Bài văn đã gợi cho em nhớ đến một số truyền thuyết về sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, các truyền thuyết đó là Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, An Dương Vương.) Câu 4 Em hiểu câu ca dao sau như thế nào? "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba." (Câu ca dao nhắc nhở mọi người Việt Nam dù đi đâu, về đâu, làm gì cũng không quên được ngày giỗ Tổ, không được quên nguồn cội của mình.) Nội dung: Ca ngợi vẻ đẹp tráng lệ của đền Hùng và vùng đất Tổ, đồng thời bày tỏ niềm thành kính thiêng liêng của mỗi con người đối với tổ tiên. Giọng đọc toàn bài: Nhịp điệu khoan thai, giọng trang trọng, tha thiết; nhấn mạnh những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp uy nghiêm của đền Hùng, vẻ hùng vĩ của cảnh đẹp thiên nhiênvùng đất Tổ và niềm thành kính tha thiết đối vói đất Tổ, với tổ tiên.
- *TIẾT 2: Cửa sông Bài đọc CỬA SÔNG Là cửa nhưng không then khóa Cũng không khép lại bao giờ Mênh mông một vùng sóng nước Mở ra bao nỗi đợi chờ. Nơi những dòng sông cần mẫn Gửi lại phù sa bãi bồi Để nước ngọt ùa ra biển Sau cuộc hành trình xa xôi. Nơi biển tìm về với đất Bằng con sóng nhớ bạc đầu Chất muối hòa trong vị ngọt Thành vũng nước lợ nông sâu. Nơi cá đối vào đẻ trứng Nơi tôm rảo đến búng càng Cần câu uốn cong lưỡi sóng Thuyền ai lấp lóa đêm trăng. Nơi con tàu chào mặt đất Còi ngân lên khúc giã từ Cửa sông tiễn người ra biển Mây trắng lành như phong thư. Dù giáp mặt cùng biển rộng Cửa sông chẳng dứt cội nguồn Lá xanh mỗi lần trôi xuống Bỗng nhớ một vùng núi non QUANG HUY Chú giải: - Cửa sông: Nơi sông chảy ra biển, hồ hoặc một dòng sông khác - Bãi bồi: khoảng đất bồi ven sông, ven biển - Nước ngọt: nước không bị nhiễm mặn - Sóng bạc đầu: sóng lớn, ngọn sóng có bọt tung trắng xóa - Nước lợ: Nước pha trộn giữa nước ngọt và nước mặt thường có ở vùng cửa sông giáp biển - Tôm rảo: Một loài tôm sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài
- Tìm hiểu nội dung bài: Câu 1 Trong khổ thơ đầu, tác giả dùng những từ ngữ nào để nói vể nơi sông chảy ra biển? Cách giới thiệu ấy có gì hay? (Khổ đầu: Tác giả dùng từ ngữ nói về nơi sông chảy ra biển: là cửa, không then khoá, cũng không khép lại bao giờ. Cách nói rất đặc biệt: cửa sông là một cái cửa nhưng khác cửa thường (có then, có khoá), cửa sông ở đây lại không có then cũng không có khoá. Cách dùng từ ngữ đó gọi là chơi chữ.) Câu 2 Theo bài thơ, cửa sông là địa điểm đặc biệt như thế nào? (Trong khổ thơ thứ hai, ba, bốn: tác giả dùng từ ngữ nói về cửa sông là một địa điểm đặc biệt. ⟶ Nơi dòng sông gửi phù sa lại để bồi đắp bãi bờ, nơi nước ngọt “ùa” ra biển rộng, nơi nước biển “tìm” về với đất liền, nơi giao hoà giữa nước ngọt với nước mặn tạo thành vùng nước lợ. ⟶ Nơi hội tụ nhiều tôm cá cũng là nơi hội tụ nhiều thuyền câu ⟶ nơi những con tàu kéo còi giã từ mặt đất, nơi tiễn người ra khơi ) Câu 3 Phép nhân hoá ở khổ thơ cuối giúp tác giả nói lên điều gì về "tấm lòng" của cửa sông đối với cội nguồn? (Khổ thơ cuối: tác giả dùng những hình ảnh nhân hoá: giáp mặt với biển rộng/cửa sông chẳng dứt cội nguồn/Bỗng nhớ vùng núi non ⟶ cho thấy “tấm lòng” của cửa sông không quên nguồn cội.) Nội dung: Qua hình ảnh cửa sông, tác giả ngợi ca tình cảm thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn. Giọng đọc toàn bài: Giọng nhẹ nhàng, tha thiết giàu tình cảm; nhấn mạnh những từ ngữ gợi tả, gợi cảm; ngắt giọng tự nhiên giữa các dòng thơ để gây ấn tượng. Là cửa nhưng không then khóa Cũng không khép lại bao giờ Mênh mông một vùng sóng nước Mở ra bao nỗi đợi chờ. Nơi những dòng sông cần mẫn Gửi lại phù sa bãi bồi Để nước ngọt ùa ra biển Sau cuộc hành trình xa xôi.
- II/ CHÍNH TẢ: 1.Nghe- viết: (HS tự viết 2 bài chính tả ) Ai là thủy tổ của loài người? Theo một truyền thuyết, Chúa Trời đã dành ra bảy ngày để sáng tạo muôn loài, trong đó có thủy tổ loài người là ông A-đam và bà Ê-va. Ở Trung Quốc cũng có chuyện thần Nữ Oa dùng đất thó nặn thành người. Còn đối với người Ấn Độ, vị thần tạo ra con người là thần Bra-hma. Đến giữa thế kỉ XIX, nhờ công trình nghiên cứu của nhà bác học thiên tài Sác-lơ Đác-uyn, người ta mới biết rằng loài người được hình thành dần qua hàng triệu năm từ một loài vượn cổ. Theo NHỮNG MẨU CHUYỆN LỊCH SỬ THẾ GIỚI Lịch sử Ngày Quốc tế Lao động Ngày 1-5-1886, công nhân thành phố Chi-ca-gô, nước Mĩ, xuống đường biểu tình đòi làm việc theo chế độ 8 giờ một ngày. Từ Chi-ca-gô, làn sóng bãi công lan nhanh ra các thành phố Niu Y-oóc, Ban-ti-mo, Pít-sbơ-nơ, Các cuộc biểu tình bị đàn áp nặng nề. Đặc biệt, ở Chi-ca-gô, cảnh sát đã xả súng vào đoàn người tay không, làm hàng trăm người chết và bị thương. Nhưng cuối cùng, giới chủ phải chấp nhận yêu sách của công nhân. Để ghi nhớ sự kiện này, ngày 1-5 hằng năm đã được chọn làm ngày biểu dương lực lượng của giai cấp công nhân toàn thế giới. Theo NHỮNG MẨU CHUYỆN LỊCH SỬ THẾ GIỚI Lưu ý: - Chú ý những từ dễ viết sai, cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài: Chi-ca-gô, Mĩ, Niu Y-oóc, Ban-ti-mo, Pit-sbơ-nơ. 2. Bài tập: Bài 2 SGK/ 70 Tìm các tên riêng trong mẩu chuyện vui dưới đây và cho biết những tên riêng đó được viết như thế nào? Dân chơi đồ cổ Xưa có một anh học trò rất mê đồ cổ. Một hôm, có người đưa đến manh chiếu rách bảo là chiếu Khổng Tử đã ngồi dạy học. Anh chàng hết sức mừng rỡ, đem hết ruộng ra đổi. Chẳng bao lâu, lại có kẻ đem một cây gậy cũ kĩ đến bảo: - Đây là cây gậy cụ tổ Chu Văn Vương dùng lúc chạy loạn, còn xưa hơn manh chiếu của Khổng Tử mấy trăm năm. Quá đỗi ngưỡng mộ, anh ta bèn bán hết đồ đạc trong nhà để mua gậy. Sau đó, lại có kẻ mang đến một chiếc bát gỗ, nói: - Bát này được làm từ thời Ngũ Đế. So với nó, cái gậy đời nhà Chu ăn thua gì? Chẳng thèm suy tính, anh học trò bán cả nhà đi để mua cái bát nọ. Thế là trắng tay phải đi ăn mày, nhưng anh ta không bao giờ xin cơm, xin gạo mà chỉ gào lên: - Ới các ông các bà, ai có tiền Cửu Phủ của Khương Thái Công cho tôi xin một đồng! Theo BÍ QUYẾT SỔNG LÂU Bài làm: . . .
- Bài 2 SGK/ 81 Tìm các tên riêng trong câu chuyện sau và cho biết những tên riêng đó được viết như thế nào. Tác giả bài Quốc tế ca Ơ-gien Pô-chi-ê sinh trưởng trong một gia đinh công nhân nghèo ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp. Thuở nhỏ, ông không có điều kiện đi học. Năm 15 tuổi, ông theo cha làm thợ đóng gói, rồi chạy việc cho một hiệu bán giày. Mãi về sau, ông mới học đọc, học viết và làm thợ in hoa trên vải. Tháng 3-1871, Pô-chi-ê tham gia Công xã Pa-ri, Công xã thất bại, ông bị truy nã gắt gao, phải trốn trong nhà một người bạn. Chính trong giờ phút khó khăn này, nhớ lại những ngày chiến đấu hào hùng, ông đã sáng tác bài thơ Quốc tế ca. Bài thơ được nhạc sĩ Pi-e Đơ-gây-tê phổ nhạc năm 1888, nhanh chóng truyền đi khắp nơi và trở thành bài ca của giai cấp công nhân thế giới. Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên, hỡi ai cực khổ, bần hàn! Lời ca hùng tráng vang lên trong các cuộc đấu tranh sục sôi của người lao động có sức mạnh kì lạ, lay động hàng triệu con tim, thôi thúc những người bị áp bức, bóc lột siết chặt hàng ngũ phấn đấu cho một ngày mai tươi sáng, môt thế giới công bằng. NGUYỄN HOÀNG Bài làm: . . . . .