SKKN Nâng cao chất lượng học tập môn hóa học cho học sinh khối 9 trường THCS Cam Thịnh Tây bằng cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
Từ thực tế dạy học hóa học ở trường THCS Cam Thịnh Tây (trên địa bàn xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh) tôi nhận thấy tỷ lệ HS yếu kém rất cao và HS không hứng thú học tập bộ môn. Khác với các môn học khác, môn hóa học có nhiều khái niệm trừu tượng và khó, do đó HS tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao chất lượng học tập môn hóa học cho học sinh khối 9 trường THCS Cam Thịnh Tây bằng cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_nang_cao_chat_luong_hoc_tap_mon_hoa_hoc_cho_hoc_sinh_kh.doc
Nội dung text: SKKN Nâng cao chất lượng học tập môn hóa học cho học sinh khối 9 trường THCS Cam Thịnh Tây bằng cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
- I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ thực tế dạy học hóa học ở trường THCS Cam Thịnh Tây (trên địa bàn xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh) tôi nhận thấy tỷ lệ HS yếu kém rất cao và HS không hứng thú học tập bộ môn. Khác với các môn học khác, môn hóa học có nhiều khái niệm trừu tượng và khó, do đó HS tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt. GV phải tạo cho HS động cơ, quyết tâm phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình. “Động cơ học tập không có sẵn, không thể áp đặt, phải hình thành dần dần trong quá trình HS chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của thầy” Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, lượng kiến thức của nhân loại là vô tận, chúng ta phải thay đổi phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, trong đó người học chuyển dần từ vai trò bị động sang chủ động, tích cực tiếp thu kiến thức. Tinh thần đó đã được nêu trong Luật Giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” Để thực hiện được vấn đề này, điều quan trọng là GV phải xây dựng được những tình huống có vấn đề trong dạy học. Để HS có thể thấy rằng muốn đạt được mục tiêu trong học tập, ngoài môi trường, các tác nhân khác thuận lợi còn phải có sự cố gắng quyết tâm của cả thầy và trò trong quá trình học tập. Sẽ có kết quả tốt hơn nếu GV tổ chức được các buổi ngoại khóa tìm hiểu về vai trò của hóa học trong đời sống, sản xuất; các buổi nói chuyện về các nhà bác học, những ngành nghề liên quan đến hóa học; tổ chức những buổi sinh hoạt giới thiệu những tấm gương học tốt môn hóa học trong và ngoài trường, kích thích lòng tự trọng của HS Đối với HS thì sự chán ghét bộ môn là rất có thể (đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của HS, làm cho HS sợ học, chán ghét bộ môn). Hóa 1
- học là môn học thực nghiệm và có ý nghĩa rất quan trọng của khoa học đời sống hàng ngày. Có nhiều cách để nâng cao chất lượng học tập môn hóa Ví dụ: - Cho HS thấy được vai trò, tầm quan trọng của môn hóa học trong chương trình THCS và các cấp học trên; vai trò và tầm quan trọng của hóa học trong đời sống, trong thực tiễn phát triển khoa học kỹ thuật Qua việc cho HS sử dụng kiến thức bộ môn giải quyết các bài tập thực tiễn, giải thích các hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh trong đời sống và trong sản xuất. - Thay đổi phương pháp, hình thức dạy học: Linh hoạt, đa dạng trong mỗi giờ, mỗi phần, chú ý hoạt động đặc trưng bộ môn (thí nghiệm hóa học biểu diễn, thí nghiệm thực hành), sử dụng phương tiện kỹ thuật trong dạy học. HS rất hào hứng khi được tham gia thí nghiệm trong giờ học hay trong phòng thí nghiệm, bài học sẽ có kết quả tốt khi sử dụng các phương tiện như máy vi tính, máy chiếu đa năng, các phần mềm hóa học - Phong cách làm việc của GV qua từng bài giảng trong quá trình nghiên cứu bộ môn; sự gần gũi, sự nhìn nhận của GV trong sự cố gắng, nỗ lực của HS. Tạo không khí vui vẻ, thoải mái trong mỗi giờ học (yêu cầu nghiêm túc nhưng vẫn nhẹ nhàng, không căng thẳng), đây chính là nghệ thuật sư phạm của GV nhờ sự nắm vững kiến thức khoa học của bộ môn, hiểu và nắm vững quy luật nhận thức, tâm lý sư phạm , hiểu rõ, đồng cảm với đối tượng HS mà mình dạy. - Lựa chọn bài tập có ý nghĩa (đặc biệt các bài tập có liên quan đến thực tiễn, bài tập có nhiều cách giải hay, sáng tạo), bài tập có yêu cầu phù hợp với đối tượng HS, sao cho đối tượng yếu kém nếu thực sự cố gắng cũng hoàn thành được yêu cầu GV giao. Bài tập được nâng dần theo chất lượng và mức độ yêu cầu. Do đó, cách tốt nhất là rèn luyện cho HS cách học hơn là nhồi nhét kiến thức. Trong những phương pháp dạy học tích cực hiện nay, dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp có thể phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực ở HS nhất. Bằng cách sử dụng những tình huống có vấn đề, HS sẽ chủ động chiếm lĩnh tri thức trong quá trình tìm hướng giải quyết những vấn đề đó. Từ đó 2
- Bước 1: Tái hiện kiến thức cũ: SO2 và CO2 có tính chất hóa học của oxit axit: Oxit axit + nước dung dịch axit Oxit axit + dung dịch bazơ muối + nước Oxit axit + oxit bazơ muối CuO và Na2O có tính chất hóa học của oxit bazơ: Oxit bazơ + nước dung dịch bazơ Oxit bazơ + dung dịch axit muối + nước Oxit bazơ + oxit axit muối Bước 2: Làm xuất hiện mâu thuẫn, nêu các giả thuyết: Hãy cho biết những oxit nào tác dụng được với: a) nước? b) axit clohiđric? c) natri hiđroxit? Bước 3: Phát biểu vấn đề: a) Tác dụng với nước là những oxit: SO2, CO2, Na2O b) Tác dụng với axit clohiđric là những oxit: CuO, Na2O c) Tác dụng với natri hiđroxit là những oxit: SO2, CO2 Viết 7 phương trình hóa học: SO2 + H2O H2SO3 CO2 + H2O H2CO3 Na2O + H2O 2NaOH CuO + 2HCl CuCl2 + H2O Na2O + 2HCl 2NaCl + H2O SO2 + 2NaOH Na2SO3 + H2O CO2 + 2NaOH Na2CO3 + H2O - Cách thứ ba: Có thể tạo ra THCVĐ khi HS phải tìm đường ứng dụng kiến thức trong học tập, trong thực tiễn hoặc tìm lời giải đáp cho câu hỏi “tại sao”. Lúc đó xuất hiện tình huống vận dụng hoặc tình huống tại sao. 13
- Ví dụ 1: Tạo ra THCVĐ khi nghiên cứu tính chất lưỡng tính của nhôm hiđroxit Bước 1: Nêu ra những kiến thức đã học có liên quan đến một vấn đề cần khắc sâu: dung dịch nhôm clorua có tác dụng với dung dịch natri hiđroxit tạo ra Al(OH)3 kết tủa. Bước 2: Đưa ra hiện tượng có chứa mâu thuẫn với kiến thức cũ gây ra lúng túng bế tắc khi giải quyết vấn đề trong học tập hay trong thực tiễn: đổ một lượng nhỏ dung dịch nhôm clorua (AlCl3) vào lượng lớn dung dịch NaOH thì không thu được kết tủa tuy lúc đầu có xuất hiện nhưng lại tan đi ngay. Bước 3: Tìm nguyên nhân của bế tắc, lúng túng và tìm những con đường khác nhằm vận dụng kiến thức đã học để có thể giải quyết được nhiệm vụ đặt ra: tìm nguyên nhân của việc không thu được kết tủa nhôm hiđroxit và tìm cách khắc phục. Ví dụ 2: Tạo ra THCVĐ khi nghiên cứu ứng dụng của khí clo. Bước 1: Tái hiện kiến thức cũ có liên quan: Clo là khí độc. Bước 2: Làm xuất hiện mâu thuẫn: Tại sao lại dùng clo để khử trùng nước sinh hoạt. Bước 3: Phát biểu vấn đề: Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo, có tác dụng diệt khuẩn Cl2 + H2O HCl + HClO Axit hipoclorơ HCl sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra, do đó khi ta sử dụng nước thì ngửi được mùi khí clo Ví dụ 3: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi? Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm khê, làm cho cơm đỡ mùi khê. Áp dụng: GV cung cấp cho HS một số mẹo vặt trong đời sống thường ngày khi giảng dạy bài “Cacbon” tiết 33 . Ví dụ 4: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra? 14
- Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí cacbonic CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt. Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức bay vào không khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa. Áp dụng: Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai bia thì chắc hẳn HS nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và có công dụng ra sao thì không ít HS biết được. GV có thể nêu câu hỏi trên khi dạy phần “Cacbon Đioxit” (tiết 34: Các oxit của cacbon). Ví dụ 5: Vì sao không nên đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể đổ axit sunfuric đậm đặc vào nước? Khi axit sunfuric gặp nước thì lập tức sẽ có phản ứng hóa học xảy ra, đồng thời sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Khi xảy ra phản ứng hóa học, nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm. Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản ứng xảy ra, nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh. Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải đổ từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha. 15
- Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm được đặt lên hàng đầu trong những tiết dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi tiếp xúc với axit H2SO4 đặc thì rất nguy hiểm. GV có thể đặt câu hỏi trên cho HS trả lời về cách pha loãng axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc trong bài “Một số axit quan trọng” (Tiết 7) Ví dụ 6: Vì sao ta không thể dập tắt đám cháy của các kim loại mạnh: K, Na, Mg, bằng khí CO2 Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí quyển CO2. Thí dụ : t o 2Mg + CO2 2MgO + C Cacbon sinh ra lại tiếp tục cháy: t o C + O2 CO2 Áp dụng: Để dập tắt các đám cháy thông thường người ta thường dùng khí CO2. Tuy nhiên một số đám cháy có các kim loại mạnh thì CO2 không những không dập tắt mà làm cho lửa cháy thêm gây thiệt hại nghiêm trọng. Đây là phần nội dung mà GV cần cung cấp cho HS biết khi đề cập đến khả năng không duy trì sự cháy của khí CO2 ở phần “Cacbon Đioxit” (tiết 34: Các oxit của cacbon) biết được để vận dụng trong cuộc sống. Ví dụ 7: Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít muối ăn NaCl ? Dưới áp suất khí quyển 1atm thì nước sôi ở 1000C. Nếu cho thêm một ít muối ăn vào nước thì nhiệt độ sôi cao hơn 1000C. Khi đó luộc rau sẽ mau mềm, xanh và chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín nhanh nên ít bị mất vitamin. Áp dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì HS sẽ không biết. HS dễ dàng làm thí nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ đó góp phần tạo nên kinh nghiệm nấu ăn cho HS, rất thiết thực trong cuộc sống. GV có thể nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài “Một số muối quan trọng” (Tiết 14) Ví dụ 9: Vì sao ở các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại Kẽm Zn ở phía sau đuôi tàu? 16
- Thân tàu biển được chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc thường xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây hư hỏng. Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang thép của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác động của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu. Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn kim loại. Kẽm là kim loại hoạt động hơn sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát gì. Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kì. Việc này vừa đở tốn kém hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu. Áp dụng: Sự ăn mòn kim loại hàng năm gây tổn thất thật nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những phương pháp chống ăn mòn kim loại. Phương pháp dùng Zn để bảo vệ vỏ tàu biển như trên rất hiệu quả và được ứng dụng rất rộng rãi. GV có thể nêu vấn đề sau khi dạy xong bài “Ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn”( Tiết 26) để cho HS giải thích nhằm giúp cho HS biết cách vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng trong cuộc sống. 3.4. Câu hỏi có tính chất nêu vấn đề “Câu hỏi nêu vấn đề” là mắt xích cuối cùng nhưng quyết định sự thành bại của toàn bộ việc tổ chức THCVĐ. Việc xây dựng THCVĐ kết thúc ở chỗ vấn đề được nêu lên dưới hình thức “câu hỏi nêu vấn đề” Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi về cái chưa biết, thường xuất phát từ phía HS hơn là phía GV. Câu hỏi nêu vấn đề bao giờ cũng nhằm kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của HS, buộc các em phải vận dụng những thao tác tư duy khác nhau, phải giải thích, chứng minh, tự kết luận. Để trả lời những câu hỏi nêu vấn đề, HS cũng phải tái hiện kiến thức cũ, nhưng không phải dưới dạng “kiến thức cũ nguyên xi” mà HS phải gia công thêm, kết hợp các kiến thức đó với nhau Câu hỏi nêu vấn đề khác với “câu hỏi thông báo”. Những câu hỏi có tính chất thông báo chỉ đòi hỏi sự nhớ lại (tái hiện) kiến thức cũ đã biết, yêu cầu chủ 17
- yếu trí nhớ của HS mà không động viên sự tìm tòi của các em. Chẳng hạn, HS đã học định nghĩa của oxit, GV chỉ hỏi “oxit là gì?”. Câu hỏi nêu vấn đề phải có những đặc điểm sau: a. Phải chứa đựng một mâu thuẫn nhận thức. Điều đó chỉ đạt được khi câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên trong giữa điều đã biết và điều phải tìm. b. Phải chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời.Nghĩa là phải tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra con đường đúng đắn nhất để giải quyết vấn đề. c. Phải phản ánh được tâm trạng ngạc nhiên của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức, khi đụng chạm tới vấn đề. Chẳng hạn, sau khi học về các oxit, GV nêu câu hỏi: “Tại sao trong tự nhiên không tồn tại canxi oxit ở dạng tự do?”. Câu hỏi này khác với câu hỏi chỉ có tính chất thông báo như: “Canxi oxit có tan trong nước không?” hoặc Canxi oxit có tác dụng với nước không?”. 3.5. Dạy HS giải quyết vấn đề a. Tầm quan trọng của giai đoạn giải quyết vấn đề Giai đoạn này là giai đoạn đi tìm điều chưa biết trong THCVĐ. Đó là khâu chủ yếu, có tầm quan trọng hàng đầu. Tập luyện cho HS biết giải quyết các vấn đề từ đơn giản đến phức tạp trong học tập chính là chuẩn bị cho các em có khả năng sáng tạo giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Ở đây phải tổ chức quá trình giải quyết vấn đề học tập như thế nào để ở mức độ nhất định, nó giống như quá trình nghiên cứu khoa học. Ở mức độ nào đó, HS phải là “nhà nghiên cứu” đang tìm cách giải quyết các vấn đề học tập nảy sinh. Trong quá trình giải quyết vấn đề học tập, GV đóng vai trò người dẫn đường và tổ chức hoạt động tìm tòi của HS giúp các em đánh giá các giả thuyết, giảm nhẹ các khó khăn để HS giải quyết được nhanh chóng. b. Cơ chế chủ yếu của việc đi tìm điều chưa biết trong THCVĐ Đó là việc đưa thường xuyên đối tượng vào hệ thống mới những mối liên hệ, mà thông qua chúng, những tính chất chưa biết được phát hiện. Chẳng hạn 18
- tính chất hóa học của kim loại được phát hiện nhờ lập liên hệ mới giữa tính chất hóa học của oxi (lớp 8) với tính chất hóa học của axit, bazơ và muối (lớp 9) c. Các bước của quá trình dạy HS giải quyết một vấn đề học tập Quá trình HS giải quyết một vấn đề học tập gồm các bước: a. Làm cho HS hiểu rõ vấn đề. b. Xác định phương hướng giải quyết - nghĩa là xác định phạm vi kiến thức tìm kiếm. Nêu giả thuyết. Nếu có vấn đề lớn, phải chia nó ra những vấn đề nhỏ và giải quyết dần. c. Kiểm tra sự đúng đắn của các giả thuyết bằng lí luận hay thực nghiệm. Xác nhận một giả thuyết đúng. d. GV chỉnh lí, bổ sung giả thuyết đúng và chỉ ra kiến thức mới cần lĩnh hội. e. Kiểm tra lại và ứng dụng kiến thức vừa thu được. Ví dụ: Giải quyết vấn đề nêu ra trong THCVĐ về tính chất hóa học của axit H2SO4 đặc nóng. Bước 1: Làm cho HS hiểu rõ vấn đề. GV làm thí nghiệm biểu diễn: Nhúng một dây đồng (hay lá đồng) đã cạo sạch vào H2SO4 đặc ở nhiệt độ thường. Hãy quan sát, nhận xét. GV: Hãy đun nóng ống nghiệm đựng H2SO4 đặc và dây đồng? có hiện tượng gì? Thử suy nghĩ xem ở điều kiện nhiệt độ nào thì H2SO4 đặc có tác dụng với kim loại Cu? Ngoài tính axit ra, H2SO4 đặc có thêm tính chất gì khác? GV hướng dẫn HS phát biểu các vấn đề cần giải đáp: - Ở nhiệt độ thường H2SO4 đặc có tác dụng với Cu không? Ở điều kiện nào thì có phản ứng? - Chất khí bay ra có phải là H2 không? Đó là chất gì? - Ngoài tính axit, H2SO4 đặc có thêm tính chất gì khác? Bước 2: Xác định phương hướng giải quyết. Nêu giả thuyết. Tiếp tục đun nóng ống nghiệm chứa H2SO4 đặc có nhúng dây đồng. GV: 19
- - Để giải quyết vấn đề đầu tiên, hay so sánh ống nghiệm đựng H2SO4 đặc nguội có nhúng dây Cu với ống nghiệm đựng H2SO4 đặc nóng có nhúng dây Cu? - Để giải quyết vấn đề thứ hai (chất khi bay lên có phải là H2 không) ta có thể thử bằng cách nào? Dùng que đóm đang cháy đốt chất khí bay lên, nếu là H2, chất khí sẽ cháy. Dùng giấy màu hồng hay hoa dâm bụt (mới nhúng nước) đặt trên miệng ống nghiệm, nếu là khí SO2, giấy màu (hay cánh hoa) sẽ mất màu. - Để giải quyết vấn đề thứ ba (H2SO4 đặc nóng có thêm tính chất gì khác), GV hướng dẫn HS lập luận và hoạt động như sau: Sản phẩm được tạo thành trong phản ứng của H2SO4 đặc nóng với Cu là những chất gì? Hãy quan sát màu dung dịch trong ống nghiệm và so sánh với ống nghiệm đựng dung dịch CuSO4. Hãy nhận xét màu, mùi của chất khí sinh ra trong phản ứng và tác dụng của nó với giấy màu (hay hoa dâm bụt). Viết phương trình phản ứng. Bước 3: Xác nhận một giả thuyết đúng. - Vấn đề 1: HS: H2SO4 đặc khi nguội không có tác dụng với Cu. Chỉ có tác dụng khi nóng. - Vấn đề 2: HS. Chất khí sinh ra trong phản ứng không bị cháy khi đưa que đóm đang cháy vào ống nghiệm; vậy nó không phải là H2. Chất khí sinh ra trong phản ứng có mùi hắc, làm mất màu của giấy màu (hay hoa), vậy khí sunfurơ SO2. - Vấn đề 3: HS: Dung dịch chất tạo thành có màu xanh giống như màu của dung dịch CuSO4. Vậy chất tạo thành trong phản ứng là CuSO4 và SO2. HS: Phương trình của phản ứng là: 20
- t o Cu + 2H2SO4 đặc CuSO4 + SO2 + 2H2O Bước 4: Kết luận về lời giải. GV chỉnh lí, bổ sung và chỉ ra kiến thức lĩnh hội. Ngoài tính chất axit, khi đặc và nóng H2SO4 còn có tính chất đặc thù là có khả năng tác dụng được với tất cả các kim loại (trừ Ag, Au). Trong phản ứng có giải phóng khí SO2 mà không giải phóng khí H2. Bước 5: Kiểm tra lại kiến thức vừa tiếp thu và dạy HS tập vận dụng kiến thức. Cho HS làm bài tập viết phương trình phản ứng H2SO4 đặc, nóng với Hg. 4. Hiệu quả Thống kê điểm kiểm tra lớp 9A và 9C Số Sỉ 0 2,5 điểm 3 4,5 điểm 5 7,5 điểm 8 10 điểm Lớp lần số SL % SL % SL % SL % 1 9A 22 / / 2 9,09 14 63,64 6 27,27 2 9A 22 / / / / 14 63,64 8 36,36 Số Sỉ 0 2,5 điểm 3 4,5 điểm 5 7,5 điểm 8 10 điểm Lớp lần số SL % SL % SL % SL % 1 9C 14 / / / / 11 78,57 3 21,43 2 9C 14 / / 1 7,14 9 64,29 4 28,57 Các kết quả trên cho thấy khi GV dạy học bằng THCVĐ, HS đã nhanh chóng xác định được hướng giải THCVĐ là do đã luyện tập theo quy trình và thường xuyên vì thế HS hiểu và ghi nhớ bài tốt hơn. Do đó kết quả điểm kiểm tra của HS cao hơn. Năng lực vận dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết THCVĐ của HS cũng cao hơn. Vậy các kết quả thu được trên đã chứng tỏ: - PPDH bằng THCVĐ đạt kết quả cao hơn so với PPDH truyền thống, điều này chứng tỏ được hiệu quả của việc sử dụng hệ thống các THCVĐ đã đề xuất. - Hệ thống THCVĐ đảm bảo được tính định hướng, hiệu quả và khả thi. Sử dụng THCVĐ trong dạy học, tạo cơ hội thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt 21
- động học tập giúp phát huy tính tích cực học tập của HS, tăng cường khả năng quan sát, phân tích, óc sáng tạo, từng bước rèn luyện cho HS khả năng tự học. - Chất lượng của HS khi học bằng phương pháp DHNVĐ được nâng lên cao hơn so với phương pháp truyền thống. III. KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu và ứng dụng tôi nhận thấy việc sử dụng các THCVĐ vào giảng dạy hoá học ở THCS hiện nay là rất cấp thiết. Xu hướng dạy học hiện này là tăng cường vai trò chủ động của HS trong quá trình lĩnh hội kiến thức, việc sử dụng THCVĐ trong dạy học, tạo cơ hội thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động học tập giúp phát huy tính tích cực học tập của HS, tăng cường khả năng quan sát, phân tích, óc sáng tạo, từng bước rèn luyện cho HS khả năng tự học. Việc sử dụng THCVĐ giúp GV đạt được mục tiêu dạy học, đòi hỏi người GV không ngừng học hỏi, trao dồi kỹ năng chuyên môn và nghề nghiệp. Dạy học bằng THCVĐ góp phần đáng kể trong việc đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THCS nói chung và môn hóa nói riêng. Dạy học bằng THCVĐ không chỉ áp dụng trong khối lớp 9 mà còn có thể áp dụng trong dạy hóa học cả khối lớp 8, 9. Qua quá trình nghiên cứu và trao đổi tôi có một số đề nghị sau: - Tăng cường các hoạt động của HS trong giờ học bằng các biện pháp hợp lí để làm cho HS trở thành các chủ thể hoạt động: - Từng bước đổi mới việc kiểm tra, đánh giá nhằm đánh giá cao những biểu hiện chủ động sáng tạo của HS. - Đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học như: + Tổ chức cuộc cách mạnh “Đổi mới phương pháp dạy học” một cách triệt để, giải thích làm cho mọi GV hiểu và có ý thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc đổi mới phương pháp dạy học . + Tổ chức cho GV dự các lớp đổi mới PPDH. + Tăng cường trang thiết bị về cả số lượng và chất lượng làm cho các thí nghiệm chính xác hơn, dễ làm hơn. 22
- + Từng bước cải thiện đời sống cho GV, có những chế độ khen thưởng thoả đáng cho những GV giỏi để động viên GV yên tâm công tác, tích cực tham gia vào cuộc cách mạng đổi mới phương pháp dạy học. Trên đây là những kết quả nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Nâng cao chất lượng học tập môn hóa học cho học sinh khối 9 trường THCS Cam Thịnh Tây bằng cách xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học” Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, cơ sở vật chất và khả năng nên tôi khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong nhận được sự đóng góp chân thành của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để hệ thống THCVĐ được hoàn thiện hơn. Tôi hi vọng rằng, hệ thống THCVĐ này sẽ được sử dụng phổ biến trong quá trình giảng dạy ở trường THCS và đóng góp một phần nào đó cho công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam. 23