Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học lớp 9 trường trung học cơ sở

Qua nghiên cứu các tài liệu sách tham khảo phục vụ cho học sinh và rút kinh nghiệm từ các kì thi học sinh giỏi, thi vào các trường chuyên của học sinh. Bản thân tôi nhận thấy hầu hết các tài liệu, bài tập biên soạn đã chú ý đến nội dung chương trình, có hướng dẫn phương pháp giải bài tập, nhưng chưa có hệ thống các kiến thức hỗ trợ để cho học sinh có thể tự tham khảo, học tập thuận lợi.
pdf 31 trang Tú Anh 01/04/2024 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học lớp 9 trường trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftuyen_chon_va_xay_dung_he_thong_bai_tap_boi_duong_hoc_sinh_g.pdf

Nội dung text: Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học lớp 9 trường trung học cơ sở

  1. - 1 - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học lớp 9 trường trung học cơ sở
  2. - 2 - ĐẶT VẤN ĐỀ Qua nghiên cứu các tài liệu sách tham khảo phục vụ cho học sinh và rút kinh nghiệm từ các kì thi học sinh giỏi, thi vào các trường chuyên của học sinh. Bản thân tôi nhận thấy hầu hết các tài liệu, bài tập biên soạn đã chú ý đến nội dung chương trình, có hướng dẫn phương pháp giải bài tập, nhưng chưa có hệ thống các kiến thức hỗ trợ để cho học sinh có thể tự tham khảo, học tập thuận lợi. - Các bài tập thường ít khai thác hiện tượng thực nghiệm hoặc hiện tượng xảy ra trong thực tế đời sống, sản xuất. Vì vậy, kỹ năng giải thích, vận dụng thực tế của học sinh còn yếu. - Trong thực tế, nhiều giáo viên qua tích luỹ được vốn kiến thức, kinh nghiệm và tiếp cận được các đề thi học sinh giỏi mới có thể xây dựng bài tập và bồi dưỡng học sinh giỏi có kết quả tương đối cao. Do đó, giáo viên mới vào nghề rất lúng túng trong việc xây dựng một hệ thống bài tập phân hoá và cách giải. Điều đó làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Nhiều đề thi học sinh hàng năm không bám sát nội dung chương trình THCS gây khó khăn cho giáo viên khi xác định nội dung ôn tập. Nhiều bài tập hoá học trong một số tài liệu chưa chú đến bản chất các hiện tượng hoá học, gây khó khăn cho giáo viên và học sinh khi dạy và học. Nhiều khi các bài tập lại có tính chất tương đối làm ảnh hưởng đến tư duy logic, khả năng liên hệ thực tế của học sinh chương trình hoá học lớp 9 đổi mới đòi hỏi nội dung và phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nguồn tài liệu tham khảo cần cho việc dạy học của giáo viên, học sinh trung học cơ sở còn hạn chế. Thăm dò việc học tập, bồi dưỡng học sinh giỏi môn hoá học của học sinh - giáo viên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An cũng như nhiều địa phương khác chúng tôi nhận thấy rằng: các em học sinh học tập chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, nội dung sách giáo khoa chứa đựng những bài tập cơ bản cô đọng. Giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi tự mày mò xây dựng bài tập và tham khảo một số tài liệu thường phân loại bài tập theo nội dung chương trình học.Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 9 THCS và qua thực tế dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi và dạy học sinh thi vào trường chuyên, tôi chọn đề tài “Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học lớp 9 trường trung học cơ sở” làm sáng kiến kinh nghiệm nhằm tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh trung học cơ sở có thêm tư liệu tự bồi dưỡng, phát triển năng lực của mình.
  3. - 3 - PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: Vị trí của việc xây dựng hệ thống bài tập hoá học lớp 9 THCS trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học. 1. Khái niệm về bài tập hoá học. Theo từ điển tiếng Việt, bài tập là bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học. Còn ‘‘bài toán’’ là vấn đề cần giải quyết theo phương pháp khoa học. Trong các tài liệu lý luận dạy học, thuật ngữ ‘‘bài toán hoá học’’ thường để chỉ những bài tập định lượng (có tính toán) trong đó học sinh phải thực hiện những phép toán nhất định. Bài tập hoá học được hiểu là những bài được lựa chọn một cách phù hợp với nội dung hoá học cụ thể và rõ ràng. Các tài liệu lý luận dạy học hoá học thường phân loại bài tập hoá học gồm bài tập lý thuyết (định tính và định lượng) ; bài tập thực nghiệm (định tính và định lượng) và bài tập tổng hợp. Học sinh phải biết suy luận logic, dựa vào kiến thức đã học như các hiện tượng, khái niệm, định luật hoá học, các học thuyết, phép toán để giải được các bài tập hoá học. 2. Tác dụng của bài tập hoá học. Bài tập hoá học là một trong những nguồn để hình thành kiến thức và kỹ năng mới cho học sinh. Bài tập hoá học giúp họ đào sâu, mở rộng kiến thức một cách sinh động, phong phú và hấp dẫn. Thông qua bài tập, học sinh phải tích cực suy nghĩ để tìm ra cách giải, từ đó hình thành được kỹ năng giải từng loại bài tập. Thông qua giải bài tập hoá học, học sinh hình thành, rèn luyện và củng cố các kiến thức, kỹ năng. Bài tập là phương tiện hiệu nghiệm để học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn, biến kiến thức của nhân loại thành của chính mình. Bài tập hoá học là phương tiện hữu hiệu để rèn luyện và phát huy tư duy của học sinh. Khi giải bài tập hoá học, học sinh phải thực hiện các thao tác tư duy để tái hiện kiến thức cũ, tìm ra mối liên hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng; phải phán đoán, suy luận để tìm ra lời giải. Bài tập hoá học là phương tiện để phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, tính thông minh, sáng tạo của học sinh. Học sinh tự tìm kiếm lời giải, tìm ra được các cách giải khác nhau và cách giải nhanh nhất cho từng bài tập cụ thể. Bài tập hoá học là công cụ hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của học sinh. Việc giải bài tập của học sinh giúp giáo viên phát hiện được trình độ học sinh, thấy được những khó khăn, sai lầm học sinh thường mắc phải; đồng thời có biện pháp giúp họ khắc phục những khó khăn, sai lầm đó.
  4. - 22 - - Kiểm tra, đánh giá kết quả: + Đối với các tỉ lệ trên có thể dùng phản ứng khác được không ? + Mỗi tỉ lệ đó áp dụng trong các trường hợp nào ? + Nguyên tắc cơ bản của bài tập dạng này ? + Có thể thay đổi tỉ lệ và viết các PTHH, chẳng hạn 14/15; 10/9, Ví dụ 7. (bài I.52) : Cho 200 ml dung dịch H3PO4 2M tác dụng với 500 ml dung dịch NaOH. Cô cạn dung dịch thu được 61,2g muối khan. Tìm nồng độ mol của dung dịch NaOH. - Nghiên cứu đề: H3PO4 (n= 2.0,2) 61,2g muối NaOH PTHH Muối? nNaOH CM - Xác định hướng giải: Tính naxit, PTHH nmuối nNaOH CNaOH - Giải: n 0,2 2 0,4 (mol). H 3PO 4 Phương trình hoá học. NaOH + H3PO4 → NaH2PO4 + H2O (1) 2 NaOH + H3PO4 → Na2HPO4 + 2 H2O (2) 3 NaOH + H3PO4 → Na3PO4 + 3 H2O (3) + Cách 1: Nhận xét: nmuối = naxit ; nNaOH = nnước Gọi số mol NaOH là x, áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có: 98 0,4 + 40x = 61,2 + 18x x = 1,0 (mol) 1 CNaOH = 2 (M ) . 0,5 61,2 +Cách 2: Nhận xét: số mol muối bằng số mol axit. Mà M muối= 153. 0.4 Vậy hỗn hợp muối gồm: Na2HPO4 (M = 142) và Na3PO4 (M = 164). Theo PTHH (2), (3): 2 NaOH + H3PO4 → Na2HPO4 + 2 H2O 2x x x 3 NaOH + H3PO4 → Na3PO4 + 3 H2O 3y y y x y 0,4 x 0,2 (mol) Ta có hệ: 142x 164y 61,2 y 0,2 (mol) 1 Nên nNaOH = 2x + 3y = 2 0,2 + 3 0,2 = 1 (mol). CNaOH= 2 (M ) 0,5 - Kiểm tra, đánh giá: + Các cách giải đúng chưa ? + Các cách giải đó dựa trên nhận xét nào ? + Có thể tính theo cách nào khác ? (tăng giảm khối lượng; xét các trường hợp muối có thể tạo ra).
  5. - 23 - Ví dụ 8. (Bài II.108) Hoà tan 17,6 g hỗn hợp một kim loại kiềm M và oxit của nó M2O vào 200g nước được dung dịch A. Cô cạn dung dịch A được 22,4g hidroxit kim loại kiềm khan. a. Tìm tên kim loại M và khối lượng các chất trong hỗn hợp đầu. b. Tính thể tích dung dịch H2SO4 0,5M cần để trung hoà dung dịch A. - Nghiên cứu đề: M (amol) tăng 17a gam 22,4g MOH Tăng 4,8 gam 17,6g M O 1 tăng 9b gam 2 b mol 2 1 - Xác định hướng giải: aM b 2M 16 17,6 2 Có thể lập được hệ phương trình: 17a + 9b = 22,4 – 17,6 = 4,8 Bài toán có 3 ẩn số > số dữ kiện là 2 (= số phương trình), do đó phải giải bằng cách biện luận để tìm tên kim loại. Từ MM → MMOH → nMOH → n axit → Vdd axit - Trình bày bài giải: a) Gọi số mol M và M2O trong hỗn hợp là a và b. Phương trình phản ứng: 2 M + 2 H2O → 2 MOH + H2↑ (1) M2O + H2O → 2 MOH (2) Cứ 1 mol M tạo 1 mol MOH, khối lượng tăng 17 g. Có a mol M – tăng 17a. 0,5mol M2O 9,0 g. Có 0,5b 9b. + Giả sử hỗn hợp chỉ có M thì: 17a = 22,4 - 17,6 = 4,8 → a = (4,8 : 17) = 0,282. → M = (17,6 : 0,282) = 62,3 + Giả sử hỗn hợp chỉ có M2O thì: 9b = 4,8 → b = (4,8 : 9) = 0,533. → 2M + 16 = (17,6 : 0,533 2 ) = 66 → M = (66 – 16) : 2 = 25 Vậy 25 < M < 62,3 . Suy ra kim loại M chỉ có thể là K. Hidroxit là KOH. b). Phương trình phản ứng: 2 KOH + H2SO4 → K2SO4 + 2 H2O Số mol KOH là: nKOH=22,4:56=0,4(mol). Số mol H2SO4 là 0,4:2 =0,2(mol) Thể tích dung dịch H2SO4 là: V = 0,2 : 0,5 = 0,4(lít). - Kiểm tra, đánh giá: + Bài toán có số phương trình ít hơn số ẩn phải giải bằng cách biện luận. Tìm nguyên tố phải tìm nguyên tử khối hoặc số thứ tự nguyên tố. Ở đây là tìm khoảng giá trị của M để xác định tên nguyên tố. Có cách biện luận khác? + Trường hợp này có thể giải bài toán bằng phương pháp MTB được không? Ví dụ 9. (bài tập II.117): Hoà tan 5,91g hỗn hợp NaCl, KBr vào 100 ml dung dịch hỗn hợp Cu(NO3)2 0,1M và AgNO3 chưa biết nồng độ, thu được kết tủa A và dung dịch B. Trong dung dịch B, nồng độ % NaNO3 và KNO3 tương ứng theo tỷ lệ 3,4 : 3,03. Cho miếng Zn vào dung dịch B, sau khi phản ứng kết thúc, lấy miếng Zn ra, sấy khô, cân lại thấy khối lượng miếng Zn tăng 1,1225g. Hãy:
  6. - 24 - a) Tính khối lượng kết tủa A, biết brom cũng tạo AgBr↓. b) Tính nồng độ AgNO3 trong dung dịch ban đầu. Hướng dẫn học sinh giải: - Nghiên cứu đề bài: ↓A (AgBr, AgCl) Cu ( Klượng giảm) NaCl + Cu(NO3)2 Tăng + Zn dư Cu(NO3)2, ?AgNO3 Ag (Klượng tăng) 1,1225g tỉ lệ m tỉ lệ n KBr AgNO3 KNO 3 , NaNO 3 tỉ lệ C% - Xác định hướng giải: - Trình bày bài giải: a). Tính khối lượng kết tủa A: nCu(NO3)2= 0,1. 0,1 = 0,01(mol). + Tính số mol các chất đã cho xmol NaCl+AgNO3 → AgCl↓ + NaNO3 Viết phương trình hoá học ymol KBr + AgNO3 → AgBr↓ + KNO3 5,91 gam (kết tủa A) + Tìm tỉ lệ số mol các chất: Từ: C% NaNO3 : C%KNO3 = 3,4: 3,03 → mNaNO3 : mKNO3 = 3,4 : 3,03 3,4 3,03 → nNaNO : nKNO 4 : 3 3 3 85 101 + PTHH của Zn trong dd B Zn + 2AgNO3 → Zn(NO3)2 + 2 Ag↓ (3) Zn + Cu(NO3)2 → Zn(NO3)2 + Cu↓ (4) Cứ 1mol Zn pư với AgNO3 m tăng 151g 1mol Cu(NO3)2 m giảm 1g Mà pư xong mZn tăng chứng tỏ AgNO3 dư + Tính khối lượng kết tủa A Và NaCl, KBr hết sau 2 pư đầu, số mol x,y. x 4 Ta có hệ: x=0,04 y 3 58,5x + 119y =5,91 y=0,03 →mA=0,04.143,5+0,03.188=11,38(gam) b). Tính nồng độ AgNO3: + Vì mZn tăng = mtăng (3) - mgiảm (4) = 1,1225g ↔ mtăng (3) = 1,1225 + mgiảm (4) ↔ mtăng(3) = 1,1225 + 0,01.1 = 1,1325 g 1,1325 ↔ Ở (3) nAgNO 0,015 3 151 ↔ nAgNO3 là:0,07+0,015 = 0,85 (mol) 0 ,085 ↔ C 0 ,85 M 0 ,1 - Kiểm tra, đánh giá: + Cái khó của bài là gì ? kết tủa A và dung dịch B có chất gì; tỉ lệ C% .
  7. - 25 - + Khối lượng lá kẽm tăng khi nào ? Khi chắc chắn có Ag tạo ra hay AgNO3 dư. + Có khi nào có Ag↓ mà khối lượng là kẽm giảm không ? Có. Khi mtăg(3)< mgiảm (4) = 0,01.1,0 = 0,01(gam). Do đó khối lượng lá kẽm giảm <0,01g. Ví dụ 10. (Bài III.180). Cho 44 gam hỗn hợp muối NaHSO3 và NaHCO3 phản ứng hết với dung dịch H2SO4 trong điều kiện không có không khí, thu được hỗn hợp khí A và 35,5gam muối Na2SO4 duy nhất. Trộn hỗn hợp khí A với oxi thu được hỗn hợp khí B có tỉ khối so với hidro là 21. Dẫn hỗn hợp khí B đi qua xúc tác V2O5 ở nhiệt độ thích hợp, sau phản ứng thu được hỗn hợp khí C gồm 4 chất có tỉ khối so với hidro là 22,252. Viết các phương trình hóa học và tìm thành phần % về thể tích của SO3 trong hỗn hợp khí C. - Nghiên cứu đề: 44g NaHCO3 H2SO4 35,5g Na2SO4 nNa2SO4 dC/H2 %VSO3 NaHSO3 A:SO2,CO2 mA nA MC nC nSO3 dB/H2 MB nO2 mB = mC - Xác định hướng giải: Từ PTHH, nNa2SO4 nA, mA nO2 mB mC nC nSO3 %VSO3 Hoặc nNa2SO4, 44g hh dB /H2 MB dC /H2 MC - Trình bày bài giải: + Cách 1: Các phương trình phản ứng : 2NaHSO3 + H2SO4  Na2SO4 + 2SO2↑ + 2 H2O (1) 2NaHCO3 + H2SO4  Na2SO4 + 2CO2↑ + 2 H2O (2) Số mol Na2SO4 = (35,5 : 142) = 0,25 (mol) Đặt số mol NaHSO3, NaHCO3 lần lượt là x và y, ta có : 104x + 84y = 44 (I) x = 0,1(mol) Theo (1) và (2) ta có: x + y = 0,5 (II) y = 0,4 (mol) Hỗn hợp B có MB = 21. 2 = 42 (gồm 0,1mol SO2; 0,4mol CO2; z mol O2). 64.0,1 44.0,4 32.z Vậy : = 42  z = 0,3(mol) 0,1 0,4 z V2O5 Phương trình hóa học tạo hỗn hợp C : 2SO2 + O2  2SO3 (3) Gọi số mol SO2 phản ứng là a. Theo (3), ta có: số mol O2 phản ứng là 0,5a. Trong hỗn hợp B có (0,1 – a) mol SO2 (chưa phản ứng); (0,3 – 0,5a) mol O2 (chưa phản ứng) ; 0,4 mol CO2 (không phản ứng); a mol SO3 (tạo ra). Khối lượng mol trung bình của hỗn hợp C là : 22,252.2 = 44,504
  8. - 26 - [64(0,1 a) 32(0,3 0,5a) 44.0,4 80a] Ta có: = 44,504 [(0,1 a) (0,3 0,5a) 0,4 a]  a = 0,09 (mol) Trong hỗn hợp C: SO2 là : 0,1 – 0,09 = 0,01(mol), O2 là : 0,3 - 0,045 =0,255(mol) Số mol CO2 là : 0,4 ; số mol SO3 = 0,09 Tổng số mol : 0,01 + 0,255 + 0,4 + 0,09 = 0,755 Phần trăm thể tích SO3 trong C : 0 ,09 .100 % = 11,92% 0 ,755 Cách 2: Từ các phương trình phản ứng ta có nhận xét: Số mol Na2SO4 = số mol H2SO4 = (35,5: 142) = 0,25 (mol) = 0,5. nA. 35,5  n NaHSO n NaHCO n SO n CO n H O 2 0,5 (mol ) 3 3 2 2 2 142 Áp dụng ĐLBTKL ta có: m m m 44 0,25 98 35,5 0,5 18 24(gam) A SO2 CO2 Gọi số mol của SO2 và CO2 trong hỗn hợp là x,y. Ta có hệ phương trình: 64x + 44y = 24,0 x = 0,1 (mol) x + y = 0,5 y = 0,4 (mol) Gọi số mol O2 trong B là z, ta có phương trình theo MB: 22 32 z M 2 21 42  z 0,3(mol) . Vậy trong B có 0,8 mol khí. B 0,5 z Vì MC = 22,252 . 2 = 44,504 và BTKL: mB = mC = 24 + 0,3.32 = 33,6 (gam) Số mol C là: nC = (33,6 : 44,504) = 0,755 (mol) V2O5 PTHH tạo hỗn hợp C: 2 SO2 + O2  2 SO3 Theo phương trình phản ứng: số mol SO2 phản ứng bằng số mol SO3 tạo thành. CO2 không phản ứng, nên số mol C ít hơn số mol B đúng bằng số mol O2 đã phản ứng. Do vậy: n 2 n 2 (0,8 0,755) 0,09(mol) SO3 O2 Phần trăm thể tích SO3 trong C : 0,09.100% = 11,92% 0,755 - Kiểm tra, đánh giá kết quả: + “Mấu chốt” bài này là ở chỗ nào ? Các bước giải đúng chưa ? + Trong 2 cách giải có điểm nào giống, khác nhau ? Cách nào dễ, gọn hơn? + Có cách giải nào khác ? Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy rằng: trong quá trình suy nghĩ tìm ra cách giải, học sinh phải huy động tất cả kiến thức cơ bản có liên quan; đổng thời sử dụng các thao tác tư duy: phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, Làm tốt
  9. - 27 - khâu kiểm tra, đánh giá cách giải và yêu cầu giải cách cách khác nhau thực chất là phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh; đồng thời khắc sâu kiến thức, phương pháp giải bài tập. 2.4. Hệ thống bài tập hoá học bồi dưỡng học sinh giỏi. 2.4.1. Bài tập về các loại hợp chất vô cơ. Bài tập viết phương trình phản ứng giữa các chất. Bài tập tách, loại – tinh chế các chất. Bài tập điều chế - biến hoá Bài tập nêu hiện tượng - giải thích - dự đoán Nhận biết các hợp chất vô cơ. Bài toán lập công thức các hợp chất vô cơ Bài toán tính theo công thức và phương trình hoá học. 2.4.2. Bài tập về kim loại. Viết phương trình phản ứng . Biến hoá-Điều chế: Giải thích-dự đoán hiện tượng. Tách, loại – tinh chế các chất. Bài toán lập công thức hợp chất, xác định kim loại 2.4.3. Bài tập về Phi Kim – Sơ lược về hệ thống tuần hoàn Bài tập viết phương trình phản ứng Bài tập về điều chế các chất. . Bài tập về dự đoán và giải thích hiện tượng Bài tập về nhận biết các chất. Bài tập về tinh chế các chất Bài toán lập công thức hoá học và tìm nguyên tố. Bài toán tính theo công thức và phương trình hoá học. 2.4.4. Bài tập tổng hợp (Tất cả các bài toán về hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi được đưa vào phần phụ lục) Vậy để quá trình bồi dưỡng học sinh đạt hiệu cao, giáo viên cần cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức lý thuyết cơ bản vững vàng. Trên cơ sở hệ thống bài tập đã xây dựng, hướng dẫn học sinh quy trình giải bài tập, xác định điểm “mấu chốt”, tình huống sai lầm thường mắc phải thông qua các bài tập cụ thể. Từ giải những bài cụ thể, học sinh sẽ biết cách tháo gỡ những điểm “mấu chốt” của từng dạng bài và tìm “mấu chốt” cho những dạng bài khác. Xác định được “mấu chốt” là cơ sở của việc xác định logic của bài, học sinh sẽ đưa ra được sơ đồ định hướng đi từ cái đã cho đến cái cần tìm
  10. - 28 - để giải bài tập. Thường xuyên rèn luyện cho học sinh tự xây dựng cho mình một tiến trình luận giải tốt tức là giáo viên đã dạy học sinh cách thức suy luận, lập luận, liên kết các vấn đề riêng lẻ thành chuỗi vấn đề. Điều quan trọng nữa là giáo viên phải luôn hướng dẫn học sinh biết tự kiểm tra, đánh giá việc giải. Kiểm tra, đáng giá việc giải bài tập bao gồm: kiểm tra khảo sát lời giải, quá trình giải, kết quả bài tập và phương pháp giải. Học sinh sẽ tự đặt cho mình câu hỏi: có lời giải nào chính xác hơn không ? Có cách lập luận nào chặt chẽ hơn không ? Có cách giải nào khác ? Có cách nào ngắn gọn ? Cách nào tốt nhất ? Từ đó, rút ra kết luận cơ bản về kiến thức, phương pháp để khi gặp tình huống tương tự học sinh có thể tự lực giải quyết nhanh chóng. Tự kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Như vậy, thông qua việc giải bài tập học sinh sẽ lĩnh hội một cách tự giác, tích cực cả về kiến thức hoá học, cả về cách thức giải bài tập, cả về phương pháp tư duy và luôn có được niềm vui sướng của sự nhận thức sáng tạo.
  11. - 29 - HIỆU QUẢ THỰC TỀ Giáo viên thực nghiệm: Cả lớp đối chứng và thực nghiệm đều do một giáo viên giảng dạy. Kế hoạch giảng dạy: - Ở các lớp thực nghiệm, giáo viên dùng bài tập trong hệ thống bài tập và phương pháp nêu vấn đề, tổ chức điều khiển học sinh tìm tòi cách giải, thu nhận kiến thức thông qua việc giải quyết các bài tập và trả lời câu hỏi. Như vậy, qua từng tiết học, học sinh sẽ nắm được cả nội dung và phương pháp giải quyết các vấn đề học tập đề ra. Giáo viên đóng vai trò điều khiển, hướng dẫn quá trình thu nhận kiến thức, làm chính xác hoá nội dung kiến thức và cách thức tư duy. - Ở các lớp đối chứng, giáo viên dùng bài tập của mình đã chuẩn bị để giảng dạy theo phương pháp truyền thống. Giáo viên giải các bài tập mẫu, sau đó học sinh bắt chước giải các bài tương tự. - Để đánh giá hiệu quả của việc dùng hệ thống bài tập phát huy tính tích cực của học sinh, chúng tôi tiến hành kiểm tra 3 bài 45 phút sau 3 chương. Đề bài kiểm tra 2 lớp như nhau, cùng biểu điểm và cùng giáo viên chấm. Các đề kiểm tra đã được đưa vào phần phụ lục. - Sau khi kiểm tra, sẽ tiến hành chấm bài theo thang điểm 10, thống kê kết quả và phân loại theo 3 nhóm: nhóm khá, giỏi có đểm 7,8,9,10; nhóm trung bình có điểm 5,6 và nhóm yếu kém có điểm dưới 5. Tiến hành xử lý kết quả để rút ra kết luận về sự so sánh giữa các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. . Kết quả thực nghiệm Bảng 3.1: Kết quả kiểm tra lần 1, lần 2, lần 3: Đơn Đối Sỉ Lần Điểm TB vị tượng số TNSP 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Xi 1 - - - - 1 6 8 12 8 5 2 7,02 TN 42 2 - - - - 1 8 14 8 8 3 - 6,55 3 - - - 1 1 9 11 9 7 2 2 6,55 1 - - - - 3 14 12 6 8 1 - 5,70 ĐC 42 2 - - 1 - 3 14 12 6 4 1 - 5,83 3 - - - 2 3 12 11 7 5 - 1 5,93
  12. - 30 - Qua số liệu thu thập từ kết quả thực nghiệm, tôi rút ra một số nhận xét sau: 1. Học sinh các lớp thực nghiệm nắm vững kiến thức hơn, biểu hiện ở khả năng tái hiện và vận dụng kiến thức tốt hơn, biết chủ động tìm ra cách giải quyết vấn đề và cách giải tối ưu; điểm trung bình các bài kiểm tra đều cao hơn ở lớp đối chứng. 2. Lớp thực nghiệm có không khí học tập sôi nỗi hơn. Học sinh lớp thực nghiệm có ý thức thảo luận, tranh luận thường xuyên hơn cả trong và ngoài lớp học. Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng thể hiện ở kết quả kiểm tra đầu giờ học cũng như kết quả cuối chương. Như vậy, có thể kết luận rằng: việc tuyển chọn, xây dựng và sử dụng hợp lý hệ thống bài tập hoá học trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 đã mang lại hiệu quả cao hơn, học sinh thu nhận kiến thức chắc chắn, bền vững, sâu sắc hơn; khả năng vận dụng độc lập, sáng tạo và hứng thú nhận thức được phát triển. Chúng tôi còn tham khảo ý kiến của một số chuyên viên hoá ở các sở giáo dục - đào tạo và nhận được ý kiến tán thành về đề tài này. Các ý kiến cho rằng: đề tài có tính thiết thực giúp giáo viên THCS có thêm tư liệu trong việc tuyển chọn, xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập nhằm pháy huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học hoá học, nhất là ở THCS. Tuy nhiên, chúng tôi cũng thấy việc áp dụng đề tài vào thực tế còn chưa được liên tục, rộng rãi và phụ thuộc một phần vào giáo viên thực nghiệm nên kết quả có hạn chế. Để đề tài có hiệu quả tốt hơn trong dạy và học, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống bài tập ở phần còn lại là bài tập về nồng độ dung dịch và phần hoá học hữu cơ. III. PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài “ Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học lớp 9, trường trung học cơ sở”, chúng tôi đã tiến hành được các công việc sau: 1. Tổng hợp được cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài bao gồm phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hoá học ở THCS, những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực; tư duy và phát triển tư duy của học sinh trong dạy học hoá học, những phẩm chất và năng lực quan trọng nhất của một học sinh giỏi hoá học. Tổng quan về bài tập hoá học: khái niệm về BTHH, tác dụng của BTHH trong việc thực hiện các nhiệm vụ môn học, phân loại và yêu cầu lý luận dạy học đối với
  13. - 31 - BTHH, vị trí của việc xây dựng hệ thống BTHH trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học lớp 9 trường THCS và trong chương trình giảng dạy ở trường CĐSP, điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học. 3. Nghiên cứu cách sử dụng hệ thống BTHH đã xây dựng để bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập bộ môn. 4. Sử dụng hệ thống BTHH đó trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi các lớp thực nghiệm ở một số trường ở thành phố Vinh. Theo chủ quan của tôi, đề tài đã đem lại một số điểm mới là: - Tổng hợp cơ sở lý luận của năng lực hay năng khiếu của học sinh giỏi hoá học, những yêu cầu lý luận dạy học cơ bản đối với bài tập hoá học. - Đề xuất được hệ thống bài tập nâng cao (hoá vô cơ) và phương pháp giải nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học lớp 9 ở trường trung học cơ sở. - Đề xuất hướng xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. Từ những kết quả thu được, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 ở các phần còn lại của chương trình. Trên đây chỉ là những kết quả nghiên cứu bước đầu. Mặc dù bản thân tôi đã hết sức cố gắng, nhưng vì điều kiện và thời gian có hạn nên chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài tiếp tục được hoàn chỉnh hơn. II. KIẾN NGHỊ 1. Cần đưa nội dung tuyển chọn và xây dựng bài tập hoá học phân hoá vào chương trình chính khoá nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho sinh viên trước khi ra trường. 2. Các Sở Giáo dục - Đào tạo cần có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về cách xây dựng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn ở các trường Trung học cơ sở.